Ads 468x60px

Thứ Ba, 18 tháng 10, 2022

Ngày 18 tháng 10: THÁNH LU-CA, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG (lễ kính)


Tiểu
sử
Thánh Lu-ca, “người thầy thuốc yêu quý” là bạn đồng hành của thánh Phao-lô và cũng là tác giả sách Tin Mừng, trong sách này người đã trình bày lòng nhân hậu của Chúa Ki-tô rõ ràng hơn ai hết. Người cũng viết sách Công vụ, tường thuật lại sự tiến triển của Hội Thánh sau ngày Hiện Xuống. Qua ngòi bút của con người thông thạo văn chương chữ nghĩa như người, Tin Mừng trở thành một bài thánh ca tạ ơn trong bầu khí vui tươi và lạc quan phấn khởi.
Lời Chúa 1 Cr 15,1-2a.3-4
Thưa anh em, tôi xin nhắc lại cho anh em Tin Mừng tôi đã loan báo và anh em đã lãnh nhận cùng đang nắm vững. Nhờ Tin Mừng đó, anh em được cứu thoát. Trước hết, tôi đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là : Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như lời Kinh Thánh.
Lời cầu
Chúa Cha đã cho chúng ta được thừa hưởng gia tài cao quý do các Tông Đồ để lại, vì thế, ta hãy cảm tạ Người và tung hô :
Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.
Chúc tụng Chúa đã xây dựng Hội Thánh trên nền tảng các Tông Đồ, - đó là nhiệm thể chúng con đang xây dựng.
Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.
Chúc tụng Chúa đã ban Lời hằng sống do các Tông Đồ rao giảng, - đó là ánh sáng và niềm vui của chúng con.
Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.
Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Tẩy và Hoà Giải do các Tông Đồ loan báo, - đó là kho tàng ơn tha thứ của chúng con.
Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.
Chúc tụng Chúa đã ban bí tích Thánh Thể do các Tông Đồ truyền lại, - đó là sức mạnh và nguồn sống của chúng con.
Chúc tụng Chúa vinh hiển muôn đời.
Lời nguyện
Lạy Chúa, Chúa đã chọn thánh Lu-ca, sai đi rao giảng và viết Sách Tin Mừng, để làm cho mọi người nhận biết Chúa đặc biệt yêu thương những kẻ khó nghèo. Xin cho những người mang danh Ki-tô hữu được đồng tâm nhất trí với nhau, hầu muôn dân được thấy ơn cứu độ. Chúng con cầu xin
Đọc tiếp »

HOÀ BÌNH (ĐTC Phanxicô, 11/10/2022)


“…Hòa bình phát sinh từ tình huynh đệ; nó phát triển thông qua cuộc đấu tranh chống lại bất công và bất bình đẳng; nó được xây dựng bằng cách đưa tay ra cho người khác. Chúng ta, những người tin tưởng vào Đấng Dựng nên tất cả, phải đi đầu trong việc cổ vũ sự phát triển của việc chung sống hòa bình. Chúng ta phải làm chứng cho hòa bình, rao giảng hòa bình, cầu xin cho có

hòa bình. Do đó, Tuyên ngôn khuyến khích các nhà lãnh đạo thế giới chấm dứt xung đột và đổ máu ở
khắp mọi nơi, và từ bỏ những luận điệu hung hăng và phá hoại (xem số 7). Chúng tôi khẩn khoản xin anh chị em, nhân danh Thiên Chúa và vì lợi ích của nhân loại: hãy làm việc cho hòa bình, không phải cho vũ khí! Chỉ bằng cách phục vụ cho sự nghiệp hòa bình, anh chị em mới ghi được tên mình vào biên niên sử của lịch sử.
Thiếu hòa bình, là vì thiếu sự quan tâm, yêu thương dịu dàng, khả năng tạo ra sự sống. Việc mưu cầu hòa bình của chúng ta, vì thế, ngày càng phải mời gọi sự tham gia, và đây là hạn từ thứ hai, của phụ nữ. Bởi vì phụ nữ cung ứng sự chăm sóc và sự sống cho thế giới: họ là chính con đường hướng tới hòa bình. Vì lý do này, chúng ta tán thành sự cần thiết phải bảo vệ phẩm giá của họ và cải thiện địa vị xã hội của họ với tư cách là những thành viên bình đẳng trong gia đình và xã hội (xem số 23). Phụ nữ cũng phải được giao phó những vị trí và trách nhiệm lớn hơn. Biết bao quyết định tai hại đã có thể tránh được nếu người phụ nữ trực tiếp tham gia vào việc ra quyết định! Chúng ta cam kết bảo đảm rằng phụ nữ ngày càng được tôn trọng, thừa nhận và tham gia!” (ĐTC Phanxicô, 11/10/2022)
Đọc tiếp »

NĂM SỰ THƯƠNG (Tông thư Kinh Mân Côi)

“22. Các sách Tin mừng đặt để một tầm quan trọng lớn cho các mầu nhiệm thương khó của Đức Kitô. Từ khởi đầu, lòng đạo đức Kitô giáo, đặc biệt trong mùa Chay qua việc thực hành Đường Thánh giá, đã dừng lại ở mỗi giai đoạn của cuộc khổ nạn, nhận thức rằng cao điểm của mặc khải về tình yêu Thiên Chúa và nguồn mạch ơn cứu độ được tìm thấy nơi đó. Kinh mân côi chọn lựa một vài giai đoạn của cuộc khổ nạn, để mời gọi các tín hữu chiêm ngưỡng trong tâm hồn và sống lại thời điểm ấy. Giòng suy niệm mở đầu với biến cố vườn Cây dầu, nơi đó Đức Kitô kinh nghiệm sự sầu não khi đối diện với thánh ý Thiên Chúa, khi mà tính yếu đuối của xác thịt bị cám dỗ muốn chống lại. Nơi đó Đức Giêsu gặp phải mọi cơn cám dỗ và đối diện với mọi thứ tội của nhân loại, để thốt lên với Chúa Cha: Xin đừng theo ý con, nhưng xin theo ý Cha (Lc 22,42 và song song). Tiếng Xin vâng của Đức Kitô đối lại với tiếng Không của tổ tiên chúng ta trong vườn Địa đàng. Và cái giá của sự trung thành với thánh ý Chúa Cha tỏ lộ trong các mầu nhiệm tiếp theo; qua việc đánh đòn, đội mão gai, vác thập giá và chết trên thập giá, Chúa đã bị gục ngã trong những đau khổ hèn hạ nhất: Ecce homo !
Sự đau khổ hèn hạ đó mặc khải không những tình yêu Thiên Chúa nhưng còn ý nghĩa của chính con người nữa.
Ecce homo: ý nghĩa, nguồn gốc và sự hoàn thành của con người được tìm thấy trong Đức Kitô, vị Thiên Chúa vì yêu thương đã hạ mình cho đến chết, chết trên thập giá (Pl 2,8). Các sự thương giúp người tín hữu sống lại cái chết của Đức Giêsu, đứng dưới chân Thánh giá bên cạnh Đức Maria, cùng với Mẹ tiến vào chiều sâu thẳm của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người và kinh nghiệm năng lực trao ban sự sống của nó.”
The Sorrowful Mysteries
22. The Gospels give great prominence to the sorrowful mysteries of Christ. From the beginning Christian piety, especially during the Lenten devotion of the Way of the Cross, has focused on the individual moments of the Passion, realizing that here is found the culmination of the revelation of God's love and the source of our salvation. The Rosary selects certain moments from the Passion, inviting the faithful to contemplate them in their hearts and to relive them. The sequence of meditations begins with Gethsemane, where Christ experiences a moment of great anguish before the will of the Father, against which the weakness of the flesh would be tempted to rebel. There Jesus encounters all the temptations and confronts all the sins of humanity, in order to say to the Father: “Not my will but yours be done” (Lk 22:42 and parallels). This “Yes” of Christ reverses the “No” of our first parents in the Garden of Eden. And the cost of this faithfulness to the Father's will is made clear in the following mysteries; by his scourging, his crowning with thorns, his carrying the Cross and his death on the Cross, the Lord is cast into the most abject suffering: Ecce homo!
This abject suffering reveals not only the love of God but also the meaning of man himself.
Ecce homo: the meaning, origin and fulfilment of man is to be found in Christ, the God who humbles himself out of love “even unto death, death on a cross” (Phil 2:8). The sorrowful mysteries help the believer to relive the death of Jesus, to stand at the foot of the Cross beside Mary, to enter with her into the depths of God's love for man and to experience all its life-giving power.



Đọc tiếp »

SỨ ĐIỆP TRUYỀN GIÁO 2020 (ĐTC Phanxicô)


“Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8) “Trong năm nay, năm được ghi dấu bởi những đau khổ và thách đố do đại dịch Covid-19 gây ra, con đường truyền giáo này của toàn Giáo hội tiếp tục được tìm thấy dưới ánh sáng trong tường thuật ơn gọi của tiên tri Isaia: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Đây là câu trả lời luôn luôn mới trước câu hỏi của Chúa: “Ta sẽ sai ai đây?” (nt.). Lời kêu gọi này xuất phát từ con tim của Thiên Chúa, từ lòng thương xót của Người, chất vấn cả Giáo hội và nhân loại trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay. “Như các môn đệ trong bài Tin Mừng, chúng ta bất ngờ bị bão tố hung bạo vùi dập. Chúng ta nhận thấy mình đang ở trên cùng một con thuyền, tất cả đều mong manh và mất hướng, nhưng đồng thời tất cả đều quan trọng và cần thiết, tất cả được kêu gọi cùng chèo với nhau, tất cả đều cần an ủi nhau. Tất cả chúng ta đều ở trên con thuyền ấy. Như những môn đệ trong bài Tin Mừng đồng thanh và lo âu nói với nhau: ‘Chúng ta chết mất’ (Mc 4,38), chúng ta cũng nhận thấy mình không thể tiến bước nếu mỗi người chỉ lo cho mình, nhưng phải cùng nhau.” (Suy niệm tại Quảng trường Thánh Phêrô, 27 tháng 3 năm 2020). Chúng ta thực sự hoảng sợ, mất phương hướng và khiếp đảm. Đau đớn và cái chết làm cho chúng ta cảm nghiệm sự yếu đuối của con người; nhưng đồng thời nhắc nhở chúng ta về một khát vọng mạnh mẽ về sự sống và về việc được giải thoát khỏi sự dữ. Trong bối cảnh này, lời mời gọi loan báo Tin Mừng, lời mời ra khỏi chính mình vì tình yêu Thiên Chúa và người lân cận được trình bày như một cơ hội để chia sẻ, phục vụ và cầu bầu. Sứ vụ mà Thiên Chúa giao phó cho mỗi người đi từ cái tôi sợ hãi và khép kín đến cái tôi được tìm thấy và đổi mới từ chính việc trao ban chính mình cho người khác. ... Hiểu những gì Thiên Chúa đang nói với chúng ta trong thời điểm đại dịch này cũng trở thành một thách đố cho sứ mạng của Giáo hội. Bệnh tật, đau khổ, sợ hãi, cách ly chất vấn chúng ta. Cái nghèo của người phải chết trong cô đơn, của người bị bỏ rơi, của những người bị mất việc làm và không có tiền lương, của những người không có nhà cửa và thực phẩm chất vấn chúng ta. Khi bị buộc phải ở nhà, chúng ta được mời tái khám phá, chúng ta cần tương quan xã hội, và cả tương quan cộng đoàn với Thiên Chúa. Xa cách gia tăng sự ngờ vực và thờ ơ, tình trạng này làm chúng ta phải chú ý hơn đến cách chúng ta sống tương quan với người khác. Và cầu nguyện, trong đó Thiên Chúa chạm đến và lay động trái tim của chúng ta, mở ra cho chúng ta nhu cầu về tình yêu, phẩm giá và tự do của anh chị em chúng ta, cũng như trách nhiệm của chúng ta trong việc chăm sóc cho mọi sáng tạo. ... Cử hành Ngày Thế giới Truyền giáo cũng có nghĩa là tái khẳng định cách cầu nguyện, suy tư và giúp đỡ vật chất cho công cuộc loan báo Tin Mừng; là cơ hội để tích cực tham gia vào sứ mạng của Chúa Giêsu trong Giáo hội của Người. Bác ái được thể hiện ở việc quyên góp trong các nghi thức phụng vụ vào Chúa nhật thứ Ba của tháng 10 tới đây, nhằm hỗ trợ công cuộc truyền giáo được các Hội Truyền giáo Giáo hoàng thực hiện nhân danh tôi, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của các dân tộc và các Giáo hội trên khắp thế giới vì ơn cứu độ của tất cả. Xin Đức Trinh Nữ Maria rất thánh, Ngôi sao loan báo Tin Mừng và Đấng An ủi người sầu khổ, môn đệ truyền giáo của Chúa Giêsu, tiếp tục cầu thay cho chúng ta và nâng đỡ chúng ta.” (ĐTC Phanxicô)
Đọc tiếp »

NGÀY 18-10: THÁNH LUCA, THÁNH SỬ



Đọc tiếp »

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2022

TỬ ĐẠO ANH HÙNG


Trích thư của thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo, gửi tín hữu Rô-ma:
“Tôi viết cho tất cả các Hội Thánh và loan báo cho mọi người biết : tôi sẽ vui lòng chết vì Thiên Chúa, nếu anh em không ngăn cản. Tôi nài xin anh em đừng tốt với tôi không đúng lúc. Hãy cứ để thú dữ ăn thịt tôi, nhờ thế, tôi sẽ được về cùng Thiên Chúa. Tôi là hạt lúa mì của Thiên Chúa và sẽ được nanh thú dữ nghiền tán để thành tấm bánh tinh tuyền của Đức Ki-tô. Xin khẩn cầu cùng Đức Ki-tô cho tôi, để nhờ đám thú dữ này, tôi được nên của lễ tiến dâng Thiên Chúa.
Vui thú trần gian chẳng ích gì, vương quốc đời này cũng chẳng lợi chi cho tôi. Đối với tôi, chết trong Đức Ki-tô Giê-su thì còn hơn trị vì cả trăm cõi. Tôi kiếm tìm Đấng đã chết cho chúng ta ; tôi mong mỏi Đấng sống lại vì chúng ta. Đã sắp đến giờ tôi được sinh ra để được hưởng sự sống đời đời. Xin anh em hãy buông tha tôi : đừng cản không cho tôi sống đời sống ấy, đừng muốn cho tôi phải chết muôn đời. Tôi đang khao khát được thuộc về Thiên Chúa, xin đừng nộp tôi cho thế gian, đừng đem vật chất ra quyến rũ tôi. Hãy để tôi đón nhận ánh sáng tinh tuyền. Về được cõi ánh sáng, tôi mới thật là người. Hãy cho tôi được bắt chước Thiên Chúa tôi mà chịu khổ nạn. Ai có Thiên Chúa trong lòng, người đó mới hiểu tôi đang muốn gì, mới thông cảm với tôi, vì biết được những gì đang thôi thúc tôi.
Thủ lãnh thế gian này muốn cướp lấy tôi, muốn làm cho ý chí tôi ra hư hoại không còn khát khao Thiên Chúa nữa. Vậy đừng ai trong anh em đang có mặt đây giúp nó làm gì. Đúng hơn, hãy đứng về phía tôi và đó cũng là đứng về phía Thiên Chúa. Còn ham sự đời thì đừng nói đến Đức Giê-su Ki-tô. Đừng ôm ấp trong lòng ý định ghét bỏ tôi. Nếu tôi đến tận nơi mà xin anh em điều gì, đừng có tin. Tốt hơn, hãy tin những gì tôi đang viết cho anh em. Tôi viết cho anh em lúc vẫn còn sống, nhưng cũng đang mong chết. Lòng yêu mến sự đời đã bị đóng đinh vào thập giá và trong tôi, lửa ham mê vật chất đã tắt hẳn rồi. Trong tôi, một dòng nước chảy rì rào cứ bảo lòng tôi : “Về nhà Cha đi !” Tôi không ham đồ ăn thức uống sẽ hư thối, cũng chẳng thích lạc thú đời này. Tôi muốn được ăn bánh Thiên Chúa, đó chính là thịt Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã sinh ra trong dòng tộc vua Đa-vít. Và tôi muốn được uống máu Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là chính tình yêu chẳng hư hao bao giờ.
Tôi không muốn sống như người phàm nữa. Nhưng có được như vậy hay không thì còn tuỳ anh em. Tôi xin anh em hãy bằng lòng đi, để chính anh em cũng sẽ được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc. Tôi có ít lời nài xin anh em : hãy tin tôi. Đức Giê-su Ki-tô sẽ cho anh em thấy rõ là tôi nói thật. Chính Người là môi miệng chân thật cho Chúa Cha phán dạy sự thật. Hãy khẩn cầu cho tôi để tôi được về cùng Thiên Chúa. Tôi đã không dựa theo xác thịt mà viết thư này cho anh em, nhưng dựa vào thượng trí của Thiên Chúa. Tôi phải chịu khổ nạn, là anh em đã muốn điều tốt cho tôi. Tôi được tha về, là anh em đã ghét bỏ tôi.”
Đọc tiếp »

Ngày 17 tháng 10: Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-khi-a, giám mục, tử đạo


Giám mục I-nha-xi-ô thành An-ti-ô-khi-a đã bị án quăng làm mồi cho thú dữ, tại Rô-ma, quãng năm 110. Tại các chặng dừng chân trên con đường tiến đến nơi hành hình, người đã gửi bảy thư cho nhiều giáo đoàn. Trong các thư đó, người nói về Chúa Ki-tô, về Hội Thánh và về đời sống Ki-tô hữu một cách khôn ngoan và thông thái. Trong các thư đó còn có một trong những bài tình ca thốt lên từ một trái tim thấm nhuần tinh
thần Ki-tô giáo : “Hãy để tôi lãnh nhận ánh sáng tinh tuyền. Nơi tôi chỉ còn một dòng nước sống động đang thầm thì : Hãy đến với Chúa Cha.”
Đọc tiếp »

…CON NGƯỜI LÀ CON ĐƯỜNG CỦA GIÁO HỘI (ĐTC Phanxicô, diễn từ ơ Kazakhstan 15/10/2022)


“…Thưa anh chị em, khi nghĩ đến con đường chung này, tôi đã tự hỏi mình: Điểm hội tụ của chúng ta là gì? Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, người đã đến thăm Kazakhstan 21 năm trước ngay trong tháng này, đã tuyên bố rằng “đối với Giáo hội, mọi con đường đều dẫn đến con người” và con người là “con đường đối với Giáo hội” (Redemptor Hominis, 14). Tôi muốn nói rằng con

người ngày nay cũng là con đường cho tất cả các tôn giáo.
Vâng, con người, đàn ông và đàn bà, những con người cụ thể, bị suy yếu bởi đại dịch, bị hao mòn bởi chiến tranh, bị thương bởi sự thờ ơ! Con người, những tạo vật yếu đuối và kỳ diệu, những tạo vật “một khi Thiên Chúa bị lãng quên, sẽ bị bỏ lại trong bóng tối” (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 36) và ngoài những người khác thì không thể sống sót! Thiện ích của con người cần được xem xét trước các mục tiêu chiến lược và kinh tế, lợi ích quốc gia, năng lượng và quân sự, và trước các quyết định chủ yếu. Để đưa ra những quyết định thực sự lớn lao, chúng ta nên nhìn vào trẻ em, những người trẻ tuổi và tương lai của họ, những người già và túi khôn của họ, những người bình thường và những nhu cầu thực sự của họ. Chúng ta đã lên tiếng và nhấn mạnh rằng con người không thể bị giản lược vào những gì họ sản xuất và kiếm được; con người phải được chấp nhận và không bao giờ bị loại bỏ; Gia đình, một từ trong tiếng Kazakh có nghĩa là “tổ ấm của tâm hồn và tình yêu”, là thực tại tự nhiên và không thể thay thế, cần được bảo vệ và phát huy, để những người đàn ông và đàn bà ngày mai có thể lớn lên và trưởng thành…
Cuối cùng, hạn từ thứ ba: người trẻ. Giới trẻ là sứ giả của hòa bình và thống nhất, trong hiện tại và trong tương lai. Chính họ hơn ai hết kêu gọi hòa bình và tôn trọng ngôi nhà chung của sáng thế. Thái độ thống trị và bóc lột thâm căn cố đế, tích trữ tài nguyên, chủ nghĩa dân tộc, chiến tranh và đục khoét các phạm vi ảnh hưởng vốn lên khuôn thế giới cũ; thế giới này đang bị giới trẻ bác bỏ: vì đó là một thế giới không có chỗ cho hy vọng và ước mơ của họ. Cũng vậy, các hình thức tôn giáo hà khắc và đàn áp không thuộc về tương lai mà thuộc về quá khứ. Lưu ý đến các thế hệ tương lai, chúng ta đã nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, điều này giúp củng cố sự chấp nhận lẫn nhau và sự chung sống tôn trọng giữa các tôn giáo và nền văn hóa khác nhau (xem số 21). Chúng ta hãy đặt vào tay người trẻ cơ hội giáo dục, chứ không phải vũ khí hủy diệt! Và chúng ta hãy lắng nghe họ, mà không sợ bị thách thức bởi những câu hỏi của họ. Trên hết, chúng ta hãy lưu tâm đến việc xây dựng thế giới với họ!” (ĐTC Phanxicô, diễn từ ơ Kazakhstan 15/10/2022)
Đọc tiếp »

NĂM SỰ SÁNG (Tông thư Kinh Mân Côi)

“21. Đi từ cuộc đời thơ ấu và ẩn dật tại làng Na-da-rét đến cuộc đời công khai của Đức Giêsu, việc chiêm ngưỡng dẫn chúng ta đến những mầu nhiệm có thể được gọi một cách đặc biệt là các mầu nhiệm ánh sáng. Dĩ nhiên, toàn thể các mầu nhiệm Đức Kitô là một mầu nhiệm ánh sáng. Người là ánh sáng thế gian (Ga 8,12). Tuy nhiên, chân lý này tỏ hiện một cách đặc biệt qua những năm tháng của cuộc đời công khai, khi Người công bố Tin mừng Nước Thiên Chúa. Để đề nghị cho cộng đoàn Kitô hữu năm thời điểm quan trọng – các mầu nhiệm chói sáng – trong giai đoạn này của cuộc đời Đức Kitô, tôi nghĩ nên chọn ra những mầu nhiệm sau đây: (1) Chịu phép rửa tại sông Gióc-đan (2) Tỏ mình ra tại tiệc cưới Ca-na (3) Công bố Nước Thiên Chúa và kêu mời sám hối (4) Hiển Dung, và cuối cùng (5) Thiết lập Bí tích Thánh thể như là một biểu hiện có tính bí tích của Mầu nhiệm Vượt qua.
Mỗi mầu nhiệm trên là một mạc khải về Nước Thiên Chúa đang hiện diện trong chính bản thân Đức Giêsu. Phép rửa tại sông Gióc-đan tiên vàn là một mầu nhiệm ánh sáng. Tại đây, khi Người bước xuống sông Gióc-đan, Đấng vô tội đã trở thành tội vì chúng ta (x. 2Cr 5,21), thì cửa trời rộng mở và có tiếng Chúa Cha tuyên nhận Người là Con yêu dấu (x. Mt 3,17 và song song), trong khi đó, Thánh Thần ngự xuống trên Người và trao cho Người sứ mạng mà Người phải thi hành. Một mầu nhiệm ánh sáng khác là dấu chỉ đầu tiên tại Ca-na (x. Ga 2,1- 12), khi Người biến nước thành rượu và mở rộng tâm hồn các môn đệ để đón nhận đức tin, nhờ sự can thiệp của Đức Maria, người tín hữu đầu tiên. Một mầu nhiệm ánh sáng khác là lời giảng dạy, qua đó Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa đang đến, kêu mời sám hối (x. Mc 1,15) và tha thứ tội lỗi cho tất cả những ai đến với Người trong tâm tình tin tưởng khiêm hạ (x. Mc 2,3-13; Lc 7,47-48): đó là khởi đầu của tác vụ bày tỏ lòng thương xót mà Người tiếp tục thi hành cho đến ngày tận thế, nhất là qua Bí tích Hoà giải mà Người uỷ thác cho Giáo hội (x. Ga 20,22-23). Mầu nhiệm ánh sáng trổi vượt hơn cả là biến cố Hiển dung, mà truyền thống tin là đã xảy ra trên núi Ta-bo. Vinh quang Thiên Chúa chói ngời trên dung nhan Đức Kitô trong khi Chúa Cha truyền lệnh cho các tông đồ đang kinh hãi phải nghe lời Người (x. Lc 9,35 và song song) và chuẩn bị cho họ cùng với Người kinh nghiệm nỗi thống khổ trong cuộc Khổ nạn, để đến với Người trong niềm vui phục sinh và trong cuộc sống được biến hình nhờ quyền năng của Chúa Thánh Thần. Mầu nhiệm ánh sáng cuối cùng là việc thiết lập bí tích Thánh thể, qua đó Đức Kitô trao ban mình và máu Người dưới hình bánh và rượu, và khẳng định Người yêu thương nhân loại cho đến cùng (Ga 13,1), Người sẽ hi sinh hiến mình để cứu chuộc nhân loại.
Trong các mầu nhiệm này, ngoại trừ phép lạ Ca-na, sự hiện diện của Đức Maria là ở hậu cảnh. Các sách Tin mừng chỉ nhắc đến sự hiện hiện tình cờ của Đức Maria lúc này lúc nọ trong cuộc đời rao giảng của Đức Giêsu (x. Mc 3,31-35; Ga 2,12), và không đưa ra chỉ dẫn nào cho thấy Mẹ hiện diện trong Bữa Tiệc Ly hay trong thời điểm thiết lập bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, vai trò Mẹ đảm nhận trong tiệc cưới Ca-na cách nào đó đã đồng hành với Đức Kitô suốt sứ vụ của Người. Mặc khải do Chúa Cha ban trực tiếp trong biến cố Phép rửa tại sông Gióc-đan và được Gio-an Tẩy giả làm vang vọng, được đặt trên môi miệng của Đức Maria tại tiệc cưới Ca-na, và nó trở thành lời khuyên từ mẫu quan trọng nhất mà Đức Maria gởi đến Giáo hội ở mọi thời đại: Hãy làm điều Người dạy bảo (Ga 2,5). Lời khuyên này là một lời giới thiệu rất thích hợp về những lời và dấu chỉ trong sứ vụ công khai của Đức Kitô và hình thành nền tảng thánh mẫu học của mỗi một mầu nhiệm ánh sáng.”
The Mysteries of Light
21. Moving on from the infancy and the hidden life in Nazareth to the public life of Jesus, our contemplation brings us to those mysteries which may be called in a special way “mysteries of light”. Certainly the whole mystery of Christ is a mystery of light. He is the “light of the world” (Jn 8:12). Yet this truth emerges in a special way during the years of his public life, when he proclaims the Gospel of the Kingdom. In proposing to the Christian community five significant moments – “luminous” mysteries – during this phase of Christ's life, I think that the following can be fittingly singled out: (1) his Baptism in the Jordan, (2) his self-manifestation at the wedding of Cana, (3) his proclamation of the Kingdom of God, with his call to conversion, (4) his Transfiguration, and finally, (5) his institution of the Eucharist, as the sacramental expression of the Paschal Mystery.
Each of these mysteries is a revelation of the Kingdom now present in the very person of Jesus. The Baptism in the Jordan is first of all a mystery of light. Here, as Christ descends into the waters, the innocent one who became “sin” for our sake (cf. 2Cor 5:21), the heavens open wide and the voice of the Father declares him the beloved Son (cf. Mt 3:17 and parallels), while the Spirit descends on him to invest him with the mission which he is to carry out. Another mystery of light is the first of the signs, given at Cana (cf. Jn 2:1- 12), when Christ changes water into wine and opens the hearts of the disciples to faith, thanks to the intervention of Mary, the first among believers. Another mystery of light is the preaching by which Jesus proclaims the coming of the Kingdom of God, calls to conversion (cf. Mk 1:15) and forgives the sins of all who draw near to him in humble trust (cf. Mk 2:3-13; Lk 7:47- 48): the inauguration of that ministry of mercy which he continues to exercise until the end of the world, particularly through the Sacrament of Reconciliation which he has entrusted to his Church (cf. Jn 20:22-23). The mystery of light par excellence is the Transfiguration, traditionally believed to have taken place on Mount Tabor. The glory of the Godhead shines forth from the face of Christ as the Father commands the astonished Apostles to “listen to him” (cf. Lk 9:35 and parallels) and to prepare to experience with him the agony of the Passion, so as to come with him to the joy of the Resurrection and a life transfigured by the Holy Spirit. A final mystery of light is the institution of the Eucharist, in which Christ offers his body and blood as food under the signs of bread and wine, and testifies “to the end” his love for humanity (Jn 13:1), for whose salvation he will offer himself in sacrifice.
In these mysteries, apart from the miracle at Cana, the presence of Mary remains in the background. The Gospels make only the briefest reference to her occasional presence at one moment or other during the preaching of Jesus (cf. Mk 3:31-5; Jn 2:12), and they give no indication that she was present at the Last Supper and the institution of the Eucharist. Yet the role she assumed at Cana in some way accompanies Christ throughout his ministry. The revelation made directly by the Father at the Baptism in the Jordan and echoed by John the Baptist is placed upon Mary's lips at Cana, and it becomes the great maternal counsel which Mary addresses to the Church of every age: “Do whatever he tells you” (Jn 2:5). This counsel is a fitting introduction to the words and signs of Christ's public ministry and it forms the Marian foundation of all the “mysteries of light”.



Đọc tiếp »

SÁCH THÁNH-THÁNH KINH-LỜI CHÚA


Dạy ta khôn ngoan…
Bài trích thư thứ hai của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-mô-thê, chương 3:
14 Anh thân mến, anh hãy giữ vững những gì anh đã học được và đã tin chắc. Anh biết anh đã học với những ai. 15 Và từ thời thơ ấu, anh đã biết Sách Thánh, sách có thể dạy anh nên người khôn ngoan để được ơn cứu độ, nhờ lòng tin vào Đức Ki-tô Giê-su. 16 Tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng, và có ích cho việc giảng dạy, biện bác, sửa dạy, giáo dục, để trở nên công chính. 17 Nhờ vậy, người của Thiên Chúa nên thập toàn, và được trang bị đầy đủ để làm mọi việc lành.
4,1 Trước mặt Thiên Chúa và Đức Ki-tô Giê-su, Đấng sẽ phán xét kẻ sống và kẻ chết, Đấng sẽ xuất hiện và nắm vương quyền, tôi tha thiết khuyên anh : 2 hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện ; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ.



Đọc tiếp »

Chủ Nhật, 16 tháng 10, 2022

NĂM SỰ VUI (Thánh Gioan Phaolô II, tông thư Kinh Mân Côi, 2002)

“20. Năm mươi kinh mân côi đầu tiên, năm sự vui, mang dấu ấn của niềm vui toả chiếu từ biến cố Nhập thể. Điều này quả là rõ ràng ngay từ mầu nhiệm đầu tiên, biến cố Truyền tin, nơi đó lời sứ thần Ga-bri-en chào Trinh nữ làng Na-da-rét nối liền với lời mời gọi vui hưởng niềm vui thiên sai: Mừng vui lên, hỡi bà Maria. Toàn thể lịch sử cứu độ, theo một nghĩa nào đó, toàn thể lịch sử thế giới quy về lời chào đó. Nếu kế hoạch của Chúa Cha là quy tụ mọi sự trong Đức Kitô (x. Ep 1,10), thì một cách nào đó, toàn thể vũ trụ cũng được tác động bởi ân huệ thần linh, với ơn huệ đó Chúa Cha đoái nhìn Đức Maria và biến ngài thành Thân mẫu của Con Người. Đến lượt mình, toàn thể nhân loại như được bao bọc trong lời Xin vâng, qua đó Mẹ sẵn lòng chấp thuận Thánh ý Thiên Chúa.
Niềm vui là nét chính yếu trong cuộc hội ngộ với bà chị Ê-li-da-bét, nơi đó tiếng nói của Đức Maria và sự hiện diện của Đức Kitô trong cung lòng ngài đã khiến cho Gio-an nhảy lên vui sướng (x. Lc 1,44). Niềm vui cũng tràn ngập hoạt cảnh tại Bê-lem, khi Hài nhi thánh, Đấng Cứu độ trần gian ra đời, được loan tin qua tiếng hát của các thiên thần và được loan báo cho các mục đồng như là tin của một niềm vui lớn (Lc 2,10).
Hai mầu nhiệm sau cùng, tuy vẫn duy trì bầu khí vui mừng, nhưng đã hướng đến bi kịch sắp đến. Trình thuật Dâng Chúa Giêsu trong Đền thánh không chỉ biểu lộ niềm vui vì Hài nhi được thánh hiến và sự xuất thần của cụ Xi-mê-ông, nhưng còn ghi lại lời tiên báo Đức Kitô sẽ trở nên một dấu hiệu chống báng cho dân Ít-ra-en và một lưỡi gươm đâm thâu tâm hồn Mẹ (x. Lc 2,34-35). Niềm vui xen lẫn với bi kịch ấn dấu trên mầu nhiệm thứ năm, tìm thấy Đức Giêsu trong Đền thánh, khi Người lên 12 tuổi. Tại nơi đây, Người đã tỏ ra như Đấng dạy dỗ với sự khôn ngoan thần linh khi Người lắng nghe và đặt câu hỏi. Sự mạc khải về mầu nhiệm của Người, trong tư cách là người Con hiến thân trọn vẹn cho công việc của Chúa Cha, cho thấy tính triệt để của Tin mừng, ngay cả tương quan nhân loại thân thiết nhất cũng cũng bị thách thức bởi những đòi hỏi tuyệt đối của Nước Thiên Chúa. Đức Maria và thánh Giu-se, sợ hãi và lo âu, không hiểu lời Người (Lc 2,50).
Như vậy, suy ngắm các mầu nhiệm năm sự vui là đi vào các động cơ tối hậu và ý nghĩa thâm sâu của niềm vui Kitô giáo. Đó là tập trung vào thực tại của mầu nhiệp Nhập thể và điềm báo khó hiểu của mầu nhiệm Khổ nạn cứu độ. Đức Maria đẫn dắt chúng ta khám phá bí mật của niềm vui Kitô giáo, khi nhắc nhở chúng ta rằng Kitô giáo tiên vàn là euangelion, Tin mừng, mà trung tâm và toàn bộ nội dung của Tin mừng là con người Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời mặc lấy xác phàm, Đấng Cứu độ duy nhất của thế giới. “



Đọc tiếp »

THÁNH THẦN ĐANG NÓI GÌ CHO GIÁO HỘI Á CHÂU? (ĐTC Phanxicô)


“Các Hiền đệ thân mến,
Là thành viên của Liên Hội đồng Giám mục Châu Á, các Hiền đệ đã bắt đầu Hội nghị của các Giám mục vào năm 1970, và khi vị tiền nhiệm của Huynh là Thánh Phaolô VI đến thăm Châu Á, ngài đã tìm thấy một lục địa có số đông dân chúng, mà phần lớn là những người trẻ, và Châu Á được nhìn nhận là quê hương của nhiều nền văn hóa và tôn giáo khác nhau.
Các Giám mục xác nhận rằng dân chúng đã thức tỉnh từ thuyết định mệnh sang một cuộc sống xứng với phẩm giá con người; ngay cả những người trẻ cũng thức tỉnh, họ vốn là những người duy lý tưởng, nhận thức, lo lắng, thiếu kiên nhẫn và bồn chồn; các xã hội đa dạng về văn hóa đã thức tỉnh để trở thành một cộng đồng thực sự của các dân tộc.
Điều này có nghĩa là Giáo hội ở Châu Á được kêu gọi để trở thành Giáo hội của người nghèo, Giáo hội của những người trẻ, và một Giáo hội đối thoại với những anh chị em Châu Á thuộc các tín ngưỡng khác một cách đích thực hơn.
Hôm nay, các Hiền đệ quy tụ lại với nhau, và Huynh mong muốn được đồng hành với các Hiền đệ theo một cách nào đó trong tình huynh đệ và trao đổi những ý tưởng mà các Hiền đệ sẽ thực hiện. Điều quan trọng là các Hội nghị Khu vực phải đạt được sự nhất quán nhất định, vì khi làm như vậy, Giáo hội được hình thành, được củng cố trên đường đi, và câu hỏi cơ bản là: Thần Khí đang nói gì với các Giáo hội ở Châu Á? Và đó là những gì các Hiền đệ cần trả lời.
Hãy tiến lên phía trước, hãy để tín hữu đảm nhận chức năng phép rửa của họ, đó là chức năng với tư cách là giáo dân, và tôn trọng sự độc nhất của mỗi người trong các Giáo hội, bởi vì Giáo hội hoàn vũ không phải là Giáo hội đồng nhất, mà là Giáo hội phổ quát, tôn trọng tính đặc thù của mỗi Giáo hội.
Xin Chúa chúc lành cho các Hiền đệ. Huynh cầu nguyện cho các Hiền đệ, và xin các Hiền đệ cầu nguyện cho Huynh. Xin cảm ơn.
Phanxicô


Đọc tiếp »

CHÚA NHẬT XXIX - TN C



Đọc tiếp »

CẦU CHO LIÊN HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á CHÂU



Đọc tiếp »

GIÁO HỘI, “HÃY CHĂM SÓC…” (ĐTC Phanxicô, 11/10/2022)


“Hãy chăm sóc: Giáo Hội không tổ chức Công đồng để tự ngưỡng mộ mình, nhưng để hiến thân cho người khác. Thật vậy, Mẹ Giáo Hội thánh khiết và cao trọng của chúng ta, phát xuất từ trái tim của Thiên Chúa Ba Ngôi, hiện hữu vì thiện ích của tình yêu. Giáo Hội là một dân tộc tư tế (xem Lumen Gentium, 10ff.), nghĩa là không phải để nổi bật trong mắt thế giới, nhưng để phục vụ thế

giới. Chúng ta đừng quên rằng Dân Thiên Chúa được
sinh ra để “hướng ngoại” và đổi mới tuổi trẻ của mình bằng cách tự hiến, vì đó là bí tích tình yêu, “dấu chỉ và khí cụ hiệp thông với Thiên Chúa và hiệp nhất toàn thể nhân loại” (Lumen Gentium, 1).
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy quay trở lại Công đồng, nơi đã khám phá lại dòng sông sống động của Truyền thống mà không sa lầy trong các truyền thống. Công đồng đã khám phá lại cội nguồn của tình yêu, không phải ở trên những đỉnh núi cao, nhưng để đổ xuống như một kênh thương xót cho tất cả mọi người. Chúng ta hãy quay trở lại Công đồng và vượt lên trên chính mình, chống lại cám dỗ tự hấp thụ, là một cách sống của thế gian. Một lần nữa, Chúa nói với Giáo Hội của Ngài: hãy chăm sóc! Và khi chăm sóc, Giáo Hội bỏ lại sau lưng những hoài niệm về quá khứ, bỏ lại những nuối tiếc về sự qua đi của ảnh hưởng cũ và những gắn bó với quyền lực. Vì anh chị em, Dân thánh của Thiên Chúa, là một dân mục vụ. Anh chị em ở đây không phải để chăn dắt chính mình, hay leo lên cao, mà là để chăn dắt những người khác - tất cả những người khác - với tình yêu thương. Và nếu cần thể hiện một mối quan tâm đặc biệt, thì quan tâm ấy nên dành cho những người mà Thiên Chúa yêu thương nhất: là người nghèo và người bị ruồng bỏ (xem Lumen Gentium, 8; Gaudium et Spes, 1). Giáo Hội có nghĩa là, như Đức Giáo Hoàng Gioan đã nói, “Giáo Hội của tất cả mọi người, và đặc biệt là Giáo Hội của người nghèo “ (Thông điệp phát thanh gửi các tín hữu trên toàn thế giới một tháng trước Công đồng chung Vatican II, ngày 11 tháng 9 năm 1962).
Con có yêu mến Thầy không? Sau đó, Chúa nói: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy”. Ngài không có ý chỉ một số con chiên, nhưng tất cả đàn chiên, vì Ngài yêu tất cả, trìu mến gọi họ là “của Thầy”. Vị Mục Tử Nhân Lành nhìn ra và muốn đàn chiên của mình được đoàn kết, dưới sự hướng dẫn của các Mục Tử mà Ngài đã ban cho họ. Ngài muốn chúng ta - và đây là cách thứ ba để nhìn vào Giáo Hội - nhìn thấy toàn thể, tất cả chúng ta cùng nhau. Công đồng nhắc nhở chúng ta rằng Giáo Hội là sự hiệp thông theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi (x. Lumen Gentium, 4,13). Trái lại, ma quỷ muốn gieo rắc sự chia rẽ. Chúng ta đừng nhượng bộ trước những lời dụ dỗ của ma quỷ hoặc trước sự cám dỗ của sự phân cực. Quá thường là khi đề cập đến Công đồng, các Kitô hữu thích chọn đứng về một phe trong Giáo Hội, mà không nhận ra rằng họ đang làm tan nát trái tim Mẹ của họ! Đã bao nhiêu lần họ thích cổ vũ cho phe phái của mình hơn là trở thành đầy tớ của tất cả mọi người? Thích là tiến bộ hay bảo thủ hơn là anh chị em với nhau? Ở bên “phải” hay “bên trái”, thay vì ở với Chúa Giêsu? Tự thể hiện mình là “người bảo vệ sự thật” hay “người tiên phong đổi mới” thay vì coi mình là những đứa con khiêm tốn và biết ơn của Mẹ Hội Thánh.
Tất cả chúng ta là con cái của Thiên Chúa, tất cả là anh chị em trong Hội Thánh, tất cả chúng ta tạo nên Hội Thánh, tất cả chúng ta. Đó là cách Chúa muốn chúng ta trở thành. Chúng ta là chiên của Ngài, là đàn chiên của Ngài, và chúng ta chỉ có thể ở bên nhau và nên một. Chúng ta hãy vượt qua mọi phân cực và giữ gìn sự hiệp thông của chúng ta. Xin cho tất cả chúng ta ngày càng “nên một”, như Chúa Giêsu đã cầu nguyện trước khi hy sinh mạng sống vì chúng ta (x. Ga 17,21). Và xin Mẹ Maria, Mẹ của Giáo Hội, giúp chúng ta trong việc này. Xin cho lòng khao khát hiệp nhất lớn lên trong chúng ta, ước muốn dấn thân để hiệp thông trọn vẹn giữa tất cả những ai tin vào Chúa Kitô. Chúng ta hãy bỏ qua một bên những “chủ nghĩa”, vì dân của Thiên Chúa không thích sự phân cực. dân Chúa là những người trung thành thánh thiện của Chúa: đó là Hội thánh. Thật tốt là hôm nay, cũng như trong thời gian diễn ra Công đồng, các đại diện của các cộng đồng Kitô khác cũng có mặt với chúng ta. Cảm ơn các bạn! Cảm ơn các bạn đã ở đây, cảm ơn sự hiện diện của các bạn!
Chúng con cảm tạ Chúa về món quà của Công đồng. Những người yêu mến chúng ta, hãy giải thoát chúng ta khỏi sự tự phụ và tinh thần chỉ trích thế gian. Xin Chúa ngăn chúng con loại trừ chính mình khỏi sự hiệp nhất. Chúa, Đấng yêu thương nuôi dưỡng chúng con, xin dẫn chúng con ra khỏi bóng tối của sự tự hấp thụ. Lạy Chúa, Đấng mong muốn chúng con là một đàn chiên hiệp nhất, xin hãy cứu chúng con khỏi những hình thức phân cực và “chủ nghĩa” là công việc của ma quỷ. Và chúng con, Hội Thánh của Chúa, cùng với Thánh Phêrô và cũng như Thánh Phêrô, giờ đây thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa biết mọi điều; Chúa biết chúng con yêu mến Chúa” (x. Ga 21,17).
Đọc tiếp »

Thứ Bảy, 15 tháng 10, 2022

Ngày 15 tháng 10, lễ nhớ: Thánh Têrêxa Avila, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh


“Ai được Chúa Ki-tô Giê-su là bạn thân và là nhà lãnh đạo hào hiệp ngự trong lòng, thì có thể chịu đựng mọi sự. Quả thật, chính Người trợ lực và tăng cường sức mạnh cho chúng ta ; Người không bỏ rơi ai, vì Người là bạn thân đích thực và chân thành. Tôi thấy rõ là : nếu chúng ta muốn đẹp lòng Thiên Chúa và được Người ban cho những ân huệ lớn lao, thì chính Thiên Chúa lại muốn những ơn ấy đến với chúng ta qua bàn tay của con người Giê-su cực thánh, là Đấng mà Thiên Chúa uy nghi đã tuyên bố là rất đẹp lòng Người.
Rất nhiều lần do kinh nghiệm, tôi nhận thấy một điều mà Chúa cũng nói cho tôi biết và tôi dám nói là tôi đã nhìn thấy tận mắt, đó là : chúng ta phải vào qua cửa này, nếu chúng ta muốn được Thiên Chúa uy nghi cao cả cho biết những điều huyền nhiệm và bí ẩn. Không được tìm con đường nào khác, cho dù đã đạt tới tuyệt đỉnh chiêm niệm. Trên con đường này, người ta bước đi an toàn vững chắc. Ở đây, Chúa chúng ta là Đấng ban phát và đem lại cho chúng ta mọi ơn lành. Chính Người sẽ dạy dỗ chúng ta. Quan sát kỹ cuộc đời của Người, chúng ta sẽ thấy không có gương nào tốt lành và trọn hảo hơn để mà bắt chước.”
Đọc tiếp »

CẦU NGUYỆN TRONG ĐAU KHỔ (ĐTC Phanxicô, 14/10/2020)


“...trong Thánh Vịnh (150), đau khổ biến thành một câu hỏi. Từ đau khổ đến nghi vấn. Và trong số rất nhiều câu hỏi, có một câu vẫn lơ lửng ở đó, giống như một tiếng kêu không ngừng xuyên suốt cuốn sách từ đầu đến cuối. Một câu hỏi mà chúng ta lặp đi lặp lại nhiều lần: “Cho đến bao giờ, lạy Chúa? Cho đến khi nào?" Mọi đau khổ đều kêu gọi sự giải thoát, mọi nước mắt đều kêu

gọi sự an ủi, mọi vết thương đều đang đợi được chữa lành, mọi vu khống đang đợi một phán xử ân giải. “Cho đến bao giờ, lạy Chúa, con phải chịu đựng điều này? Lạy Chúa, xin lắng nghe con! ” Biết bao lần chúng ta đã cầu nguyện như thế, với câu “Cho đến khi nào?”, Giờ đây đã đủ rồi, lạy Chúa!
...
Lời cầu nguyện của Thánh Vịnh là bằng chứng của tiếng kêu này: một tiếng kêu đa dạng, bởi vì trong cuộc sống, nỗi đau có muôn hình muôn dạng, và nó mang đủ thứ tên: bệnh tật, hận thù, chiến tranh, bách hại, ngờ vực… Cho đến “tai tiếng” tối hậu, tức cái chết. Cái chết xuất hiện trong sách Thánh Vịnh như kẻ thù phi lý nhất của con người: tội ác nào đáng bị trừng phạt tàn nhẫn như vậy, bao gồm tận diệt và kết liễu? Lời cầu nguyện của các Thánh Vịnh xin Thiên Chúa can thiệp nơi mọi cố gắng của con người đều vô ích. Đó là lý do tại sao cầu nguyện, trong và tự nó, là con đường cứu rỗi và là khởi đầu của ơn cứu rỗi.
...
Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là phải chịu đựng sự bỏ rơi, không được nhớ đến. Lời cầu nguyện cứu chúng ta khỏi điều này. Vì điều có thể xảy ra, và thậm chí thường xuyên xẩy ra là chúng ta không hiểu các kế hoạch của Thiên Chúa. Nhưng tiếng kêu của chúng ta không bị kẹt ở dưới thế này: chúng dâng cao tới Người, Đấng có trái tim của một người Cha, và chính Người khóc cho mọi con trai và con gái đang đau khổ và chết chóc. Tôi xin nói với anh chị em một điều: trong những thời khắc khó khăn, thật tốt cho tôi khi nghĩ rằng Chúa Giêsu đang khóc; Người khóc lúc nhìn Giêrusalem, Người khóc trước mộ của Ladarô. Thiên Chúa đã khóc cho tôi, Thiên Chúa đang khóc, Người khóc vì nỗi buồn của chúng ta. Vì, như một nhà văn linh đạo hay nói, Thiên Chúa muốn làm cho chính Người trở thành con người, để có thể khóc. Nghĩ rằng Chúa Giêsu khóc với tôi trong những lúc buồn sầu là một niềm an ủi: nó giúp chúng ta tiếp tục tiến bước. Nếu chúng ta duy trì mối liên hệ của chúng ta với Người, cuộc sống không buông tha đau khổ cho chúng ta, nhưng chúng ta mở lòng ra chào đón một chân trời tốt lành rộng lớn và cố gắng vươn tới sự thành toàn của nó. Anh chị em hãy can đảm lên, kiên trì cầu nguyện. Chúa Giêsu luôn ở bên cạnh chúng ta.” (ĐTC Phanxicô, 14/10/2020)
Đọc tiếp »

HỘI THÁNH TRÀN NGẬP NIỀM VUI (ĐTC Phanxicô, giảng lễ 11/10/2022)


“Thưa anh chị em, chúng ta hãy trở về với nguồn tình yêu trong sáng của Công đồng. Chúng ta hãy khám phá lại niềm đam mê của Công Đồng và làm mới lại niềm đam mê của chính chúng ta đối với Công Đồng! Hãy đắm mình trong mầu nhiệm của Giáo Hội, Mẹ và Hiền Thê, chúng ta cũng hãy nói với Thánh Gioan 23: Gaudet Mater Ecclesia! (Diễn văn Khai mạc Công đồng, ngày 11 tháng 10

năm 1962). Cầu xin cho Hội Thánh tràn ngập
niềm vui. Nếu không vui mừng, Giáo Hội sẽ phủ nhận chính bản thân mình, vì Giáo Hội sẽ quên đi tình yêu đã sinh ra mình.
Tuy nhiên, có bao nhiêu người trong chúng ta không thể sống đức tin một cách vui vẻ, không có những phàn nàn và chỉ trích? Một Hội Thánh yêu mến Chúa Giêsu không có thời gian cho những cuộc cãi vã, buôn chuyện và tranh chấp. Xin Chúa giải thoát chúng ta khỏi sự chỉ trích và bất khoan dung, khắc nghiệt và tức giận! Đây không phải là vấn đề của phong cách mà là tình yêu. Đối với những người yêu thương, như Tông đồ Phaolô dạy, hãy làm mọi việc mà đừng càm ràm (x. Pl 2,14). Lạy Chúa, xin dạy chúng con cái nhìn cao cả của chính Ngài; xin dạy chúng con nhìn Giáo Hội như Chúa nhìn Giáo Hội. Và khi chúng ta bị chỉ trích và bất bình, chúng ta hãy nhớ rằng trở thành Giáo Hội có nghĩa là làm chứng cho vẻ đẹp của tình yêu, sống cuộc đời của chúng ta như một câu trả lời cho câu hỏi của Chúa: Con có yêu mến Thầy không? Chứ không phải hành động như thể chúng ta đang canh thức trong một đám tang.
Con có yêu mến Thầy không? Hãy chăm sóc các chiên của Thầy. Với động từ thứ hai, hãy chăm sóc, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu thương mà Ngài mong muốn từ Thánh Phêrô. Vì vậy, bây giờ chúng ta hãy suy ngẫm về Thánh Phêrô. Ngài là một người đánh cá mà Chúa Giêsu đã biến thành một Tông đồ chài lưới người (x. Lc 5,10). Chúa Giêsu giao cho ngài một vai trò mới, đó là một người mục tử, một việc hoàn toàn mới đối với ngài. Thực tế đây là một bước ngoặt trong cuộc đời của Thánh Phêrô, vì trong khi những người đánh cá lo đánh bắt cho mình thì những người chăn chiên lại quan tâm đến người khác và cho người khác ăn. Những người chăn chiên sống với bầy chiên của họ; họ cho chiên ăn và yêu thương chúng. Người chăn chiên không ở “trên” lưới như người đánh cá, mà là “ở giữa” bầy chiên của mình. Người chăn đứng trước mặt dân chúng để vạch đường, đứng giữa dân chúng như một người trong số họ, và đứng sau dân chúng để gần gũi với những người đi lạc. Một người chăn chiên không ở trên, giống như một người đánh cá, nhưng ở giữa.
Đây là cách nhìn thứ hai về Giáo Hội mà chúng ta học được từ Công đồng: nhìn xung quanh. Nói cách khác, ở trong thế giới với người khác mà không bao giờ cảm thấy mình vượt trội hơn người khác, nhưng là tôi tớ của thực tại cao hơn là Nước Thiên Chúa (xem Lumen Gentium, 5); đưa tin mừng của Phúc âm vào đời sống và ngôn ngữ của mọi người (xem Sacrosanctum Concilium, 36), chia sẻ niềm vui và hy vọng của họ (xem Gaudium et Spes, 1). Ở giữa dân chúng, nhưng không đứng trên mọi người, vì đứng trên mọi người là tội lỗi tồi tệ của chủ nghĩa giáo sĩ giết các con chiên hơn là hướng dẫn họ hoặc giúp đoàn chiên phát triển. Công đồng kịp thời làm sao! Công đồng giúp chúng ta từ chối cám dỗ nhốt mình trong giới hạn của những tiện nghi và niềm tin của chính chúng ta. Công đồng giúp chúng ta bắt chước đường lối của Thiên Chúa, mà tiên tri Êdêkien đã mô tả cho chúng ta ngày nay: “con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh” (xem Ed 34,16).
Đọc tiếp »
 
Địa chỉ: Hiệp Hòa, Tân Thắng, Hàm Tân, Bình Thuận.