LƯỢC SỬ:
1-KỶ YẾU 50 NĂM GIÁO PHẬN PHAN THIẾT (2025)
LƯỢC SỬ GIÁO XỨ CÙ MI
MỪNG 50 NĂM THÀNH LẬP GIÁO PHẬN PHAN THIẾT
I.
ĐÓN
NHẬN:
Khoảng năm 1887,
một người bổn đạo tên Minh quê Quảng Bình đã ở tại Cù Mi lâu năm, thấy địa thế
Cù Mi dễ bề lập họ, lại có vài người có đạo đã ở đó nên đến xin Cha Fx. Huỳnh Công Ẩn
(Cha Bảy) đem hơn mươi người bổn đạo
gốc Bình Định và Phú Yên trốn lánh trong cơn bắt bớ tới tại Cù Mi. Tên mấy người
này là trùm Kê, biện Minh, biện Cậy, biện Bộ, anh em biện Lục, biện Đôn và biện
Lai.
Từ
bảy hay chín người đầu tiên mà con cháu ngày nay quen gọi là các “tiền hiền”, trải
qua hơn 100 năm, Giáo xứ mỗi ngày một phát triển. Và không chỉ phát triển cho
riêng mình, Cù Mi tiếp tục là vùng đất lành đón nhận những hạt giống đức tin từ
khắp các miền của đất nước: bà con gốc Quảng Trị đi kinh tế mới và dân cư tự do
lập nên Giáo họ Giuse (3 đợt từ năm 1976 đến 1980 và 2 đợt vào năm 1988 của bà
con gốc Giáo phận Vinh), bà con đi kinh tế từ Lagi lập nên Giáo họ Mân Côi (1979),
bà con di dân từ Giáo phận Vinh lập nên Giáo họ Phêrô (1981)… mà nay là những
Giáo xứ lớn mạnh: Thánh Giuse, Vinh Thắng, Mân Côi và Antôn.
II.
SỐNG:
Ngay
từ buổi đầu, các bậc tiền hiền đã chọn Cù Mi vì nhận thấy nơi đây ruộng đất phì
nhiêu, biển nhiều cá, rừng nhiều gỗ tốt, dân cư lại thưa thớt nên sinh kế dễ
dàng. Họ đến đây chỉ hai bàn tay không mà thôi, đến sau đã làm ăn tấn phát, dư
giả.
Chỉ
trong vài năm Cha Bảy trông coi họ đạo này, số bổn đạo tăng gần 100 người. Sau
đó đến Cha Sanh trông coi được 6 tháng thì Cha Boivin về thay làm Cha sở họ đạo.
Cha Boivin cho dựng ngôi Nhà thờ đầu tiên lợp bằng lá, lập họ Cù Mi cho thành một
họ chánh và nhận Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời làm bổn mạng. Vào năm 1899, lần đầu tiên kể từ
ngày lập xứ, giáo dân được đón Đức Cha Francois Xavier Camelbecke từ Quy Nhơn
chinh thân vào thăm và ban phép Thêm Sức. Đến ngày 01/5/1935, thời Cha Marcô
Châu, Giáo
xứ lại được hân hoan đón Đức Cha Victor Quinton từ Sài Gòn về dâng Thánh lễ đại triều, làm phép Nhà thờ, nhà xứ, nhà Dì, trường
học và ban phép Thêm sức. Trong thời gian này, giáo dân tuy ít, nhưng đã
được tổ chức quy củ: có Nhà thờ, nhà xứ, nhà Dì, có các Thầy các Dì dạy học, Biện
việc, các Biện sở, Giáp, Câu, Biện đồng nhi, hội Nhi nữ mà quỹ hội đã đài thọ
được cho việc xây cất Nhà thờ.
Trong
thời kỳ chiến tranh Việt – Pháp (1946 – 1954), dân chúng dồn nhau vào rừng cất
nhà lánh nạn, không còn linh mục chăm sóc. Thế nhưng, lòng đạo của giáo dân Cù
Mi vẫn vững vàng. Đêm đêm khoảng 3 giờ sáng, giáo dân đánh trống, vác tượng Đức
Mẹ ra thắp nến trưng hoa, tụ họp đông đủ cầu nguyện, rồi giải tán kịp rạng đông
để còn đem tượng đi dấu sợ Pháp bắn phá. Đức tin của người giáo dân Cù Mi còn
được vững vàng giữa cơn sóng gió ấy chính là nhờ lòng sùng mộ Đức Mẹ.
Từ Hiệp định Genève phân đôi đất nước (1954), giáo dân trở về làng xóm, sinh hoạt Giáo xứ trở lại bình thường, xây cất lại Nhà thờ, nhà xứ, nhà trường… Khi công cuộc kiến thiết đang tiến hành tốt đẹp, thì năm 1964, một quả bom đã giáng xuống nhà thờ Cù Mi, giáo dân phải sơ tán xuống khu vực thuộc Giáo xứ Tân Lập, lập nên Giáo xứ Hiệp Hòa, cho tới năm 1975, khi hòa bình được vãn hồi mới trở về lại Cù Mi. Trong thời kỳ này, Đức Cố Giám Mục Piquet Lợi đã về thăm Giáo xứ 1 lần và Đức Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã về thăm ba lần và cầu chúc chóng mau thanh bình để giáo dân Cù Mi sớm chấm dứt những ngày “lưu đày Babylon”.
Một biến cố đáng ghi nhớ vào sử Cù
Mi: Chúa Nhật ngày
25/4/1975, sau buổi kinh sáng, Đức Cha Nicôla, mới nhận Giáo phận được một tuần
(17/04/1975), đã về thăm giáo dân Cù Mi (đang tạm trú tại Tân An,
Bình Tuy) lúc vắng Cha Quản xứ. Chính Đức Cha đã kịp bổ nhiệm Cha Sở mới cho Cù
Mi là Cha GB. Hoàng Thanh Huê. Sau đó, Cha GB. Hoàng Thanh
Huê đã đưa giáo dân Cù Mi “hồi hương” về
quê cha đất tổ. Lúc này, Nhà thờ chỉ còn hai bức tường đứng trơ trọi bên đống gạch
vụn, xung quanh cây cối um tùm. Thế nhưng, tượng đài Đức Mẹ vẫn sừng sững giữa
trời xanh dang rộng cánh tay mừng đón đàn con lưu lạc trở về gầy dựng lại Giáo
xứ. Và ngày 23/5/1975, Cha Quản xứ GB.
Hoàng Thanh Huê dâng Thánh lễ đầu tiên tại quê hương Cù Mi sau thời
gian “lưu đày Babylon”. Vậy là sau 10 năm 2 tháng 27 ngày, mảnh đất Cù Mi lại có
Thánh lễ. Đến ngày 29/01/1989, Cha GB. Huê cho xây dựng Nhà thờ và sau đó, cùng
giáo dân long trọng dâng lễ tạ ơn Chúa, khánh thành Nhà thờ và mừng Cù Mi trên
100 năm tuổi.
Ngày 11/06/1994, Cù Mi đón Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Vân Nam về Quản xứ. Tiếp
tục công việc Cha tiền nhiệm còn dở dang, Cha cho xây dựng nhà xứ, hàng rào
nghĩa địa, đúc tượng Thánh giá, sửa sang lại những con đường nhỏ trong Giáo xứ,
xây dựng nhà nguyện Giáo họ Giuse.
Ngày 13/5/2001, Cha
Giuse Hồ Sĩ Hữu về coi xứ. Sau 11 tháng, Cha Giuse Phạm Thọ được đặt làm Quản nhiệm
thay Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu. Thời gian Cha Giuse Phạm Thọ quản nhiệm, phong
trào học hỏi chia sẻ Lời Chúa lan mạnh trong giáo dân và duy trì cho đến hôm
nay.
Ngày 21/08/2003 Cha
Phêrô Nguyễn Đình Sáng được sai đến coi sóc Cù Mi. Cha Phêrô tiến hành kiện toàn hệ
thống cơ sở hạ tầng Giáo xứ: xây nhà xứ, nhà giáo lý, lễ đài nghĩa trang… Đặc
biệt, ngày 22/02/2005, Giáo xứ Cù Mi phấn khởi mừng lễ đặt viên đá đầu tiên và
đến ngày 28/02/2007, ngôi Nhà thờ được khánh thành và cung hiến. Trong thời
gian này, Cha Phêrô cũng cho xây Nhà thờ Giáo họ Mân Côi (được khánh thành và
cung hiến ngày 30/12/2008).
Ngày 06/02/2009, Giáo xứ đón Cha Gioan Nguyễn Văn Hảo về làm chánh xứ Cù Mi. Trong thời gian này, Cha cùng bà con giáo dân xây dựng
Nhà thờ Giáo họ Phêrô và đến ngày 17/5/2012, Giáo họ Phêrô
hân hoan mừng ngày trọng đại khánh thành ngôi Nhà thờ mới, Giáo xứ mới và chính
Cha Gioan Nguyễn Văn Hảo được đặt là Cha Quản xứ tiên khởi với tên gọi Giáo xứ
Hồ Thắng.
Ngày 18/5/2012, Cha Gioan
Nguyễn Kim Hà về làm Chánh xứ Cù Mi. Cha Gioan đã
cho tu sửa cộng đoàn quý Dì, xây nhà máy nước sạch, đền Đức Mẹ Phù Hộ và nhà giáo
lý. Cha có công làm lại chủ quyền đất của Giáo Xứ Cù Mi, từ khi khai khẩn và
dâng hiến cho nhà thờ xưa hàng trăm mẫu, nay còn lại quyền sử dụng ba sở đất : nhà
thờ, nhà Dì, nhà Cây Me 12.527m2, ba sở ruộng Phó Lâm, Đức Mẹ, gần nhà quí Dì
24.020 m2, tổng cộng 14 sổ đỏ với hơn 3 mẫu 6 sào. Đây là tài sản quí trăm năm
cần bảo tồn.
Ngày 08/10/2019, Cha
Phêrô Nguyễn Hữu Duy về làm Chánh xứ Cù Mi. Cha vừa vun đắp đời sống đạo đức cho giáo dân, vừa chỉnh
trang cơ sở vật chất phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt trong Giáo xứ như hội trường,
nhà giáo lý, nhà vệ sinh, hệ thống năng lượng mặt trời, đất Cây Me được cha phó
GB. Nguyễn Linh Kha làm thành sân bóng mini cho thiếu nhi và giới trẻ rèn luyện
sức khoẻ chống lại đại dịch Covid đã kéo dài từ 2019 đến nay (2022)...
Trải dài gần 135 năm hình thành và phát triển, với 7 tiền hiền lúc
khởi đầu, qua 27 đời Cha xứ, 13 Cha phó, đã có 14 ngôi Nhà thờ được xây dựng, “sinh ra” 4
giáo xứ mới… hiện nay Cù Mi mỗi ngày một lớn mạnh với
754 gia đình và 2.749 giáo dân, bao gồm
6 Giáo khu với 579 Gia
trưởng, 655 Hiền mẫu, 664 Giới trẻ và 469 Thiếu nhi. Bên cạnh đó là các đoàn
thể đóng góp tích cực cho các sinh hoạt đời sống đức tin của Giáo xứ: Hội
Lêgiô có 79 hội viên, được thành lập vào ngày 26/06/1961; Hội Têrêsa có 15 hội
viên, được thành lập ngày 12/06/1996; Hội lòng Chúa thương xót có 22 hội viên,
được thành lập ngày 05/10/2010; Hội con Đức Mẹ có 20 hội viên, được thành lập
ngày 18/06/2012.
III. LOAN BÁO TIN MỪNG:
Từ một Giáo xứ có địa bàn rộng lớn, đông đảo giáo
dân, sau khi 3 Giáo họ được tách ra và nâng lên hàng Giáo xứ, địa bàn Giáo xứ
Cù Mi chỉ còn giới hạn trong ba thôn: Gò Găng, Hiệp Hòa, Hàm Thắng, với tỉ lệ Công giáo hơn 80%. Với địa bàn như vậy, cùng với trào lưu tục hóa, đặc
biệt nơi giới trẻ, chương trình mục vụ được hướng tới là tái truyền giáo nhằm giúp
mọi người sống đời sống chứng tá tinh thần Tin Mừng trong đời sống hằng ngày. Đồng
thời, trang bị đức tin vững vàng nhờ huấn
giáo kỹ càng cho thế hệ trẻ mà phần đông sẽ đi làm ăn học hành xa xứ. Để rồi,
chính các bạn trẻ ấy sẽ là những chứng nhân loan báo Tin Mừng nơi môi trường di dân mới…
2-NAM KỲ ĐỊA PHẬN (1922)
LƯỢC SỬ GIÁO XỨ CÙ MI
(Theo Nam Kỳ Địa Phận, năm thứ muời bốn – 1922, số 7, HỌ CÙ MI)
…Nên Cha Archimbaud với Cha Bảy về Địa Phận Quy Nhơn đã định lập họ Cù Mi lối trong năm 1894, mà thật sự là chính mình Cha Bảy đã lo lắng gầy dựng nên họ nầy.
Khi ấy có một người bổn đạo ở tỉnh Quảng Bình tên là Minh đã bỏ đạo mà đến ở tại Cù Mi lâu năm, cho đến chừng nghe nói thiên hạ ở xung quanh miền Phan Thiết đem nhau xin vô đạo nhiều, thì người đi đến cùng Cha Bảy mà thưa cho Cha hay về địa thế tại Cù Mi dễ bề lập họ, lại cũng có vài chú có đạo tới ở đó rồi.
Vậy Cha Archimbaud và Cha Bảy đã thân hành đến tại Cù Mi là nơi đồng trống cỏ hoang, như có khai phá cho thành ruộng rẫy thì cũng dễ bề ở ăn lập nghiệp, cho nên hai Cha nhứt định lập họ.
Cách ít lâu đó thì Cha Bảy đã đem hơn mươi người bổn đạo gốc ở Bình Định và Phú Yên đã trốn lánh trong cơn bắt bớ, tới tại Cù Mi. Những kẻ nầy đến đó không có đem theo vật gì, hai tay không mà thôi, mà đến sau đã làm ăn tấn phát, dư giả khá, cùng làm quới chức tại họ, tên mấy người nầy là ông trùm Kê, biện Minh, biện Cậy, biện Bộ và hai anh em biện Lục, biện Đôn và biện Lai; biện Lai hồi đó là học trò ở giúp Cha Bảy. Vậy họ Cù Mi lần lần đã đặng tăng số, trong có vài năm là khi Cha Bảy coi họ nầy, số bổn đạo đã gần được 100 người.
Cha Bảy coi họ Cù Mi trong chừng 2 năm, kế Cha Sanh đổi lại và ở được có 6 tháng. Đoạn Cha Boivin làm Cha sở họ nầy, Cha lo cất nhà thờ còn lại bây giờ, mà ban đầu thì lợp lá mà thôi, Cha cũng lo cất nhà Cha sở cho tử tế, lập họ Cù Mi cho thành một họ chánh, hầu dễ bề cho bổn đạo ở xung quanh tựu hội mà đọc kinh xem lễ. Cha Boivin ở tại Cù Mi cũng trong chừng 2 năm, là từ năm 1897 tới năm 1899.
Trong năm 1899, Cù Mi nhập về Địa phận Sài Gòn, thì Cha Sao coi họ nầy, bổn đạo trong họ còn thương nhớ Cha Sao lắm, vì trong bốn năm Cha coi họ Cù Mi thì Cha hết lòng thương yêu dạy dỗ cho ai nấy đặng thông hiểu lẽ đạo vững vàng; cùng lo làm nhà thờ cho rồi, trên lợp lại bằng ngói.
Chừng Cha Sao đổi, thì Cha Lộc (P. Guéguend) coi họ Cù Mi, Cha lo lập trường rước thầy dạy đồng nhi học kinh phần lẽ đạo. Cha cũng lo lập họ La Gì, mà bởi một mình Cha lo không xiết, phần xa xuôi quá nên Đức Cha cho Cha Keller tới phụ giúp, Cha Keller giúp đặng 3 năm kế Cha khác đổi lại.
Bởi nhờ sự Cha Guéguend lập trường và rước thầy Dòng Cái Nhum tới giúp dạy đồng nhi và chầu nhưng đạo mới, cho nên việc mở mang đạo đặng mau thạnh. Lại nhờ bổn đạo trong họ có lòng kính mến Đ C Bà lắm, nhà thờ họ kính dưng Đức Bà làm bổn mạng; trong tháng Đ C Bà mỗi ngày thiên hạ tựu đến mà làm việc Đ C Bà đông đắn như ngày Chúa nhựt Lễ cả vậy. Trừ ra một ít người biếng nhác, vì bởi ban sơ không có ai dạy dỗ lẽ đạo cho thấm, chớ nói được là giáo hữu họ Cù Mi giữ luật điều Hội Thánh hẳn hoi, siêng năng xưng tội rước lễ, đạo hạnh chín chắn.
Mấy kẻ đến ở trước hết tại Cù Mi như đã nói trên, thì đứng bộ ruộng đất trong họ, mấy người tới sau cũng đặng chia cho mỗi người một hai phần mà làm ăn lập nghiệp, song không được phép bán cho ai, nếu không con cháu kế hậu thì ruộng đất phải giao lại cho nhà thờ.
Nguyện xin Đ C Bà Maria chẳng hề mắc tội tổ tông hằng xuống ơn bầu chữa cho họ Cù Mi càng thới thạnh, hầu thêm sáng danh Con Đức Mẹ.
HỌ CÙ MI CỮA
Nhiều người ngoại ở Cù Mi Cữa thấy bổn đạo Cù Mi họ nhờ Cha Bảy lo lắng cho được thạnh các việc, nên đã xin Cha mà theo đạo, cùng lập nên một họ được bảy tám mươi bổn đạo, mà những kẻ ấy vô đạo mau quá không có học hành lẽ đạo cho đủ, nên không đặng vững bền. Khi Cha Sao coi họ Cù Mi thì tại Cù Mi Cữa cũng còn bổn đạo nhiều, mà cách 2 năm sau, làng bắt những kẻ nầy phải lo việc đi trạm, nên phần nhiều đã bỏ mà đi nơi khác, cho khỏi việc cực nhọc nặng nề, Cha Sao khuyên bảo thể nào họ cũng không vưng, cho nên thì còn lại chừng vài ba mươi bổn đạo mà thôi, và không được sốt sắng bao nhiêu.
Đến sau có thầy tới dạy thì coi muốn khá lại, mà chừng thầy thôi ở thì ai nấy cũng lạt lẽo bề đạo hạnh như trước.
Bổn đạo họ nầy thảy đều nghèo, trừ ra ông Câu khá một chút mà thôi, khi ấy có nhà thờ lá nhỏ mà cũng đà hư, phần trong họ không có huê lợi chi hết.
Trông cậy Chúa dủ lòng thương xót họ nầy, mà khai quang cho nhiều ngoại giáo ở xung quanh đặng nhìn biết Chúa mà xin vào sổ làm con cái Chúa cho đông, cho danh Chúa cả sáng, nước Chúa trị đến hơn nữa.
3-KỶ YẾU "TAM BÁCH CHU NIÊN ĐỊA PHẬN NHA TRANG"(1971)
LƯỢC
SỬ GIÁO XỨ CÙ MI
(GIÁO
XỨ HIỆP HÒA)
(Theo Kỷ Yếu Giáo Phận Nha Trang – Tam Bách Chu Niên
1971)
I. VỊ TRÍ:
Giáo xứ Hiệp Hòa hay quen gọi là Cù My, là một xứ đạo kỳ cựu nhất của Hạt
Bình Tuy, cách nam tỉnh lỵ Bình Tuy 18 cây số, và cách Bắc tỉnh lỵ Bà Rịa 50
cây số, sát bờ biển Nam Hải, giữa rừng Hiệp Hòa trên tỉnh lộ 23 nối liền Bình
Tuy với Phước Tuy. Con đường xuyên rừng này mới được hoàn thành trong đời trung
tá Lê Văn Bường, tỉnh trưởng đầu tiên của tỉnh Bình Tuy.
Biển nhiều cá, rừng nhiều gỗ tốt, ruộng đất phì nhiêu, dân cư lại thưa thớt (xứ
đạo Cù My nằm trong xã Hiệp Hòa chỉ có 4 ấp: một ấp đồng bào Chàm, 2 ấp đồng
bào lương, 1 ấp hoàn toàn Công giáo, đó là ấp Hàm Thắng cũng là chính xứ Cù My
dân toàn xã có độ 1.200 người, xã gần nhất cũng cách xã Hiệp Hòa 17 cây số đường
rừng) nên sinh kế của dân chúng rất dễ dàng: họ làm biển, làm rừng, nhưng nghề
chính của họ là làm ruộng nhà chung.
II. NGƯỢC DÒNG LỊCH SỬ:
Năm 1887, Cha Huỳnh Công Ẩn quen gọi là Cha Bảy cùng với 9 người gốc Quảng
Bình, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa vào lập nghiệp. Đây là phần đất của quan
trấn thủ địa đầu Kỵ úy Nguyễn Hữu Từ. Sau khi bị quan Bố Trà giết, con cháu ông
đã nhường cho Cha Bảy để lập nên xứ đạo Cù My, với những ruộng đất mới khai
thác từng vùng, do bàn tay người thượng làm công cho quan Phi Kỵ, ngày nay các
ruộng đất ấy còn mang tên các sắc dân, như đập Bà Ôn, ruộng Bà Rít…
Sau Cha Huỳnh Công Ẩn, trước 1945, xứ Cù My đã liên tục được các linh mục thuộc
hai Địa phận Quy Nhơn, Saigon coi sóc: Cha Nam, Cha Nhã (Quy Nhơn), Cha Sao rồi
đến quý Cha thừa sai Jean Lộc, Keller Lefèbre, Ferré, sau đến Cha Tiên, Cha Lễ
(2 lần), Cha Thể, Cha Giàu, Cha Châu. Cha phó thì có Cha Vạn, Cha Hưng. Cha
Giàu làm Cha sở Cù My hai lần và được kể là lâu nhứt. Lần nhậm sở sau cùng,
Ngài kiêm luôn Tân Lý và thường ở tại Tân Lý.
Trong thời kỳ ấy giáo dân tuy ít, nhưng đã được tổ chức quy củ: có nhà thờ, nhà
xứ (bằng vật liệu nhẹ), nhà chị phước, chuông Khánh, có các thầy các dì dạy học,
Biện việc, các Biện sở, Giáp, Câu. Biện đồng nhi, có hội nhi nữ mà quỹ hội đã
đài thọ được cho việc xây cất thánh đường.
III. THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN:
1946-1954. Đang lúc thanh bình tương lai hứa hẹn,
chiến tranh Việt Pháp bùng nổ, cha con tản mát. Cha Giàu phải chạy vào đất đỏ -
nhà thờ, nhà xứ, dì phước bị Việt Cộng đốt phá cùng với xóm làng, dân chúng dồn
nhau chạy vào rừng cất nhà lánh nạn. Đêm đêm trở về xóm mót hái rau, hái trái
cây hay đốt đèn treo trên đầu cày, cày ruộng trồng lúa, đời sống thật là cơ cực
thiếu thốn. Mặc dù thế, lòng đạo của giáo dân Cù My vẫn vững vàng. Đêm đêm khoảng
3 giờ sáng giáo dân đánh trống, vác tượng Đức Mẹ ra thắp nến trưng hoa, tụ họp
đông đủ cầu nguyện, rồi giải tán kịp rạng đông để còn đem tượng đi dấu sợ Pháp
bắn phá. Ngày Lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, Lễ Sinh Nhật hằng năm được tổ chức linh đình
mặc dù Việt Cộng cấm cách. Cha mẹ nhất định không gả con nếu không có phép
giao, vì thế có đến 9 đôi phải len lỏi băng rừng tìm vào Cha Giàu ở đất đỏ để
xin làm phép.
Suốt thời kỳ này, chỉ có
hai Cha vãng lai thăm họ ít ngày, đó là Cha Nguyễn Bá Luật và Nguyễn Bá Kính,
nhờ Cha Luật giáo dân đã biết cách làm hôn phối theo kiểu bất thường.
Đức tin của người giáo dân Cù My còn được vững vàng giữa cơn sóng gió ấy chính
là nhờ lòng sùng mộ Đức Mẹ.
IV. 1954 ĐẾN NAY:
Hiệp định Genève phân đôi đất nước, VC tập kết ra Bắc. Giáo dân lại trở về xóm nếu không có đình chiến, chắc chắn nhiều vị trong Ban Hành Giáo đã bị thủ tiêu vì muốn giữ lấy tinh thần cho giáo dân và của cải cho nhà chung.
Sinh hoạt giáo xứ trở lại bình thường, cha Abel Troger được Đức Cha bổ về cai xứ.
Ngài liền mời các Cha dòng Chúa cứu thế về làm tuần đại phúc, giáo dân hớn hở
kéo nhau đi dự. Sau ngài là Cha Viot, Cha xây cất lại thánh đường xưa đã bị VC
đốt phá, lúc này xứ Cù My thuộc địa phận Nha Trang.
Sau Cha Viot là Cha Moussay vừa phải coi Tân Lý vừa phải mở đạo trên vùng Tam Tân Hiệp Nghĩa, nên Đức Cha đã trao xứ Cù My cho Cha Nguyễn Đạo Quán năm 1961, Cha xây nhà xứ, cất nhà trường, mua chuông mới cho do tiền của ông bà Bộ Rẩy dâng cúng và lập Đạo Binh Đức Mẹ.
Đang khi công cuộc kiến thiết tiến hành, thì đột nhiên ngày 21/2/1965 VC đột nhập
xứ, Cha con bỏ làng lên Bình Tuy lánh nạn, tạm trú trong các nhà giáo dân xứ
Vinh Tân, Thanh Xuân, Tân Lý, bỏ lại tất cả nhà cửa ruộng vườn. Sau này máy bay
ném bom tiêu tan toàn bộ.
Vài tháng sau nhờ sự giúp đỡ của chính phủ, cha con kéo nhau lên khoảng đất sau
cọng chánh sát nách Tân Lập dựng nhà ở tạm, và sau khi tạm ổn định,
cha con chung lo cất nhà thờ, dựng nhà xứ, làm phòng họp, toàn bằng vật liệu nhẹ,
vì lòng giáo dân còn mong về quê cũ.
Sinh hoạt giáo xứ lại sầm uất, HĐGX được tổ chức theo đúng nội quy, các hội
đoàn cũng được thành lập thêm theo kịp đà tiến với các giáo xứ bạn trong Hạt.
Đức Cố Giám Mục Piquet cũng đã về thăm 1 lần và Đức Cha đương kim cũng đã về
thăm ba lần và cầu chúc chóng mau thanh bình, để xứ Cù My trở về quê cha đất tổ,
chấm dứt những ngày lưu đày Babylon.
4- KỶ YẾU 25 NĂM GIÁO PHẬN PHAN THIẾT (2000)
LƯỢC SỬ GIÁO XỨ CÙ MI
Theo “KỶ YẾU 25 NĂM GIÁO PHẬN PHAN THIẾT”
Giáo xứ Cù Mi hiện thuộc xã Tân Thắng, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. Thoạt đầu có Cù Mi “Hộ” (giáo xứ) và Cù Mi “Cửa” (giáo họ ở Bình Châu). Giáo xứ Cù Mi do cha Huỳnh Công Ẩn thành lập năm 1885, thời Đức Cha Hân (Prancois Xavier Van Camelboke) cai quản địa phận Quy Nhơn. Giáo dân lúc đó gồm 8 gia đình từ Bình Định, Phú Yên, Nha Trang… Vì số giáo dân tăng thêm, nên cha Huỳnh Công Ẩn lập thêm làng Hàm Thắng (bây giờ là thôn 2, xã Tân Thắng). Quan thầy của Giáo xứ: Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời, mừng kính vào ngày 15-8 hằng năm.
Về cơ sở vật chất: có nhà thờ tạm, làm bằng vật liệu thô sơ. Sau đó cha Boivin làm nhà thờ bằng gỗ cho Cù Mi “Hộ” và Cù Mi “Cửa”.
Năm 1890, Cù Mi nhập địa phận Sài Gòn – cha Micae Giàu làm quản xứ. Năm 1934, xây nhà thờ có tháp cao 30m; nhà thờ này này bị đốt cháy vào năm 1947. Sau đó được cha Nhơn (Viot) tu bổ, đến năm 1965, bị bom tàn phá tất cả.
Cha Micae Giàu làm quản xứ 25 năm, ngài coi luôn giáo xứ Tân Lý. Ngoài nhà thờ tháp cao 30m, ngài còn xây nhà xứ, nhà trường, nhà các Nữ tu Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, tất cả đều bằng gỗ.
Từ năm 1885-1975, Cù Mi có 24 cha làm quản xứ, có 6 cha coi xứ từ 10 đến 25 năm: cha Guégnand, cha Lefèbvre, cha Tiên, cha Lễ.
Năm 1957, Cù Mi thuộc địa phận Nha Trang dưới thời Đức Cha Lợi (Piquet). Năm 1963, cha Vincente Nguyễn Đạo Quán làm quản xứ, ngài tiếp tục tu bổ nhà thờ, đã được cha Nhơn làm lại sau khi bị đốt. Ngài còn xây nhà xứ trên bằng gạch phía sau đài Đức Mẹ hiện tại. Sau đó, xây trường học và đặt tượng Mẹ trước nhà thờ.
Nhà thờ này lại bị bom phá sập tan tành vào năm 1965, giáo dân phải rời Cù Mi về tạm trú tại Tân An, phía sau Nhà thờ Đồng Tiến. Lúc này, số giáo dân ước chừng 1500 người. Có các hội đoàn: Lêgiô, con Đức Mẹ, Nghĩa binh Thánh Thể. Đời sống đạo phát triển khá mạnh.
Năm 1975, Cù Mi thuộc giáo phận Phan Thiết, dưới sự cai quản của Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi. Một biến cố đáng ghi nhớ vào sử Cù Mi: ngày 25-4-1975, sau buổi kinh sáng ngày Chúa Nhật, giáo dân Cù Mi (đang tạm trú tại Tân An, Bình Tuy) đã đón tiếp Đức Cha Nicolas đến thăm, trong lúc vắng cha quản xứ, vì cha Sáng (Roger Delsuc) đã mất vì bệnh ung thư. Cha J.B. Lê Xuân Hoa, Hạt trưởng, đưa Đức Cha đến bằng xe Honđa, ông Trùm Đông, Chủ tịch Hội Đồng Giáo xứ đại diện giáo dân mừng Đức Cha và phái đoàn tháp tùng.
Ngày 20-5-1975, cha J.B. Hoàng Thanh Huê, được bổ nhiệm làm quản xứ, ngài dời nhà thờ bằng gỗ, từ Tân An về làm nhà thờ tạm trên nền nhà thờ bị tàn phá.
Năm 1976-1978, xây dựng nhà thờ mới, lợp tôn, tường gạch, 12 cột tròn bằng gỗ. Làm nhà xứ phía sau nhà thờ, xây trường học, xây nhà cho cộng đoàn MTG. Phan Thiết.
Có các hội đoàn: Bà Mẹ Công Giáo, Legio, Thiếu nhi Thánh Thể, Têrêxa. Cha Huê rời Cù Mi, cha Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Nam thay thế, ngài xây đài Đức Mẹ, lễ đài, hội trường, nhà xứ mới. Đến tháng 10.1998, cha Giuse Phạm Thọ về làm phó xứ.
Từ năm 1975, ngoài 5 khu địa phương, giáo dân từ Bắc, Trung, Nam đến lập nghiệp, làm thành các giáo họ, mỗi giáo họ trên dưới 1000 người… giáo họ Antôn, Mân Côi, Phêrô đã có nhà nguyện từ những năm 1985-1997. Từ ngày 01.12.1999, giáo họ Giuse bắt đầu xây nhà nguyện mới, với diện tích 200m2, do Tòa Giám Mục tài trợ và đã hoàn thành vào đầu tháng 05.2000.
Đa số giáo dân Cù Mi làm ruộng, làm rừng, làm biển, một số ít buôn bán nhỏ, và làm nghề thủ công. Tòa Giám Mục đã giúp xây 2 đập đưa nước vào tưới cho cánh đồng, để làm 2 vụ, có nơi được 3 vụ. Số giáo dân hiện nay trên 6000 người.
Về văn hóa: trước 1975, đa số mù chữ, số còn lại trình độ từ lớp 3 đến lớp 6,7. Từ năm 1990, số học sinh tăng nhiều. Niên khóa 1999-2000, cấp I: 1450 học sinh, cấp II: 570 học sinh, cấp III: 56 học sinh và 16 sinh viên đại học. Từ 1994, Giáo xứ đã có chừng 15-20 người xin theo đạo.
II. CÙ MI THEO DÒNG THỜI GIAN
Khoảng Năm 1887, Cha Fx Ẩn (1) và thầy Lê Pho cùng chín gia đình “Tổ Phụ” đã đặt chân đến mảnh đất Cù Mi, lúc đó gọi là làng Hàm Thắng, thuộc tổng Phước Thắng, huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận. May mắn thay, cha con đã được miêu duệ của quan Kỵ úy Nguyễn Hữu Từ nhường cho một phần đất để làm ăn sinh sống. Rồi trên mảnh đất này, Cha Ẩn đã cùng các bổn đạo đầu tiên lập nên họ đạo Cù Mi. Chỉ một thời gian sau, một nguyện đường bằng gỗ tạp, lợp lá buông được hoàn thành. Đây là ngôi Nhà thờ thứ nhất. Lần đầu tiên sau chuỗi ngày gian nan, thánh lễ “cung hiến” và Mừng Lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời được dâng một cách sốt sắng (15.8.1887) trang nghiêm bởi một cộng đoàn gồm Cha Xứ tiên khởi và các Bổn đạo ít ỏi này.
Thời gian Cha Nhã coi sóc là thời gian họ đạo phát triển mạnh mẽ. Số giáo dân tăng nhanh nhờ nhiều giáo dân nhập cư và lương dân tại địa phương theo đạo. Cha đã hướng dẫn các bổn đạo làm ngôi nhà thờ mới rộng rãi và vững chắc hơn.Đó là ngôi Nhà thờ thứ 2 của Giáo xứ Cù Mi. Bên cạnh đó, Cha còn mở các lớp Giáo lý để củng cố đức tin cho cả giáo dân cũ và các tân tòng. Sinh hoạt của họ đạo Cù Mi lúc này khá phong phú và vững vàng.
Đến năm 1912 Cha Lộc đổi đi và Cha Gustave Lefebvre Luật (9) lên làm Cha Chánh xứ và Cha Ferre làm phó (P4). Năm 1915, Cha Phêrô Tiễn về thay, Cha Ferre làm phó. Năm 1916 Cha Gustave Lefebvre đổi về xứ Mỹ Hội, thì Cha Phêrô Tiễn (10) lên Chánh xứ Cù Mi và Cha Tôma Vạn làm Cha Phó (P5). Trong thời gian này Giáo xứ Cù Mi có 2 Dì thuộc dòng MTG Thủ Thiêm giúp. Đó là Dì Nhì Hải và Dì Tám Vân. Tập tục mừng tuổi Chúa, đọc bài chúc Hôn phối tại tiệc cưới, diễn Thánh tuồng mừng lễ Giáng sinh được Cha Phêrô Tiễn áp dụng từ đây. Có những tập tục mới này làm cho tinh thần sống đạo trong giáo dân được hưng khởi rất nhiều. Dù những xáo trộn về Cha Sở như thế, nhưng thời gian đầu, đời sống đạo của giáo dân vẫn ngày một thăng tiến. Những ngày lễ sốt sắng, những sinh hoạt vui tươi và sinh động diễn ra đều đặn. Giáo dân phấn khởi tham gia tổ chức các ngày lễ trọng như Phục Sinh và Giáng Sinh. Có khi giáo dân chuẩn bị tập tuồng, kịch hay canh thức trước cả mấy tháng trời. Nhưng rồi sự khó khăn đã nảy sinh. Nguyên nhân chính là vì các Cha coi sóc đều là người Pháp, thuộc Hội Thừa sai Paris (MEP). Ngôn ngữ bất đồng, văn hoá cách biệt, Cha sở và bổn đạo ít hiểu nhau. Dần dà, những sinh hoạt sôi nổi cũng chìm xuống. Đến năm 1918, nhiều Chủng sinh Việt Nam được phong chức Linh mục, Toà Giám mục sai Cha Giuse Trần Hiếu Lễ (11) đến làm Chánh họ đạo thay Cha Phêrô Tiễn và Cha Giuse Hưng là Cha Phó (P6). Cha tổ chức lại họ đạo, đặt lại ông Trùm, ông Câu, ông Biện và thành lập các hội đoàn. Mọi sinh hoạt nhận được sinh khí mới và phát triển trở lại. Lúc này, giáo phận Tây Đàng Trong được đổi thành địa phận Sài Gòn (03.02.1924). Cha Lễ coi sóc Cù Mi cho đến năm 1920. Năm 1920, Cha Giuse Lễ đổi đi và Cha Phêrô Thể (12) thuộc Địa phận Sài Gòn về làm Chánh xứ Cù Mi. Cha Thể tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho giáo dân trong Giáo xứ như Cha mở trại dệt đệm bườm được làm bằng lá buông để bán ra miền Trung. Từ ấy, mới có tục danh là Gò đệm. Lúa thu hoạch từ ruộng Nhà chung, Cha Thể không dùng đến mà Cha canh tác phần ruộng riêng là phần ruộng Phó Lâm để chi phí ăn uống hàng ngày.
Năm 1935, Cha Macco Châu (14) thuộc Giáo phận Sài Gòn đến làm Chánh xứ Cù Mi thay Cha Giàu. Đi cùng với Cha Châu có 2 thầy: thầy Thanh và thầy Quyền giúp giáo sở Cù Mi. Cha Macco Châu tiếp tục thực hiện ý định của Cha Giàu và lập kế hoạch mời Đức Cha Quinton về làm phép Nhà thờ và công trình phụ. Ngày 01.5.1935 Nhà thờ Giáo Xứ Cù Mi trang hoàng cờ hoa lộng lẫy, Đức Cha từ trên kiệu hoa bước xuống, chuông trống rập ràng vang lên toàn thể giáo dân Cù Mi long trọng đón Đức Cha Quinton. Cùng đi với Đức Cha có hai Cha thừa sai khác nhưng không biết tên. Đức Cha đã dâng Thánh lễ Đại triều, làm phép Nhà thờ, Nhà xứ, nhà Dì, trường học, các ảnh tượng và ban phép Thêm sức. Để tán thưởng và ghi nhận công lao to lớn và lòng nhiệt thành của Giới chức đã giúp cha Micae Giàu xây dựng và sửa sang lại toàn bộ các công trình cùa Giáo xứ nhất là ngôi Thánh đường mới này. Đức Cha Quinton đã gắn huy chương Tòa thánh cho 4 ông Đại diện Giáo xứ Cù Mi: Đó là ông Câu nhì Antôn Lê Tước, ba ông Biện việc là: ông Phêrô Trương Khương, ông Phaolô Nguyễn Đặng và ông Giuse Trần Bình. Giúp xứ được ba năm thì Cha Macco Châu đổi đi.
thờ thứ tư của Giáo xứ Cù Mi hay gọi là nhà thờ Bằng Lăng nghèo nàn, đơn sơ. May thay, năm 1948-1949 có hai Cha là Nguyễn Bá Kính và Nguyễn Bá Luật ghé thăm. Giáo dân vui mừng tiếp đón và mời Cha dâng Thánh lễ, ban Phép các Bí tích. Giáo dân sốt sắng lãnh nhận các Bí tích cũng như tham dự Thánh lễ. Rồi hai Cha phải chia tay, mọi người lại trở về cảnh sống bơ vơ, không người chăn dắt. Giáo xứ trong hoàn cảnh không Cha xứ, máy bay địch oanh tạc thường xuyên. Ay vậy mà không có ngày Lễ trọng nào lại không tổ chức trọng thể. Năm 1948, trường học của Giáo xứ được mọc lên ngay Gò Ông Thầy, các lớp học văn hóa, Giáo lý ra đời, với các giáo viên là Thầy Nguyễn An (cựu Latinh), cô giáo Nguyễn Thị Tùy (nữ tu), cô giáo Mai Thị Trang (nữ tu). Trung bình cả trường có từ 50-60 học sinh. Đến năm 1950 trường học phải di dời về phía sau Nhà thờ Bằng Lăng. Vì máy bay thường oanh tạc bắn phá khu vực Nhà thờ Bằng Lăng. Nên tháng 3.1950 trường học tiếp tục dời về khu ruộng Bà Rít và ổn định cho đến năm 1954. Dù cuộc chiến vẫn xảy ra, bom đạn vẫn nổ, nhưng việc học hành của các em vẫn không bị gián đoạn, giải quyết tình trạng mù chữ cho con em Cù Mi trong thời kỳ lịch sử khắc nghiệt này.
học và Nhà thờ đều hoàn tất. Đây là Nhà thờ thứ 5 của Giáo xứ Cù Mi.
(Cha JB Hoàng Thanh Huê bên nhà thờ ti nạn Bình Tuy 1975) |
Sau chiến tranh, cuộc sống khó khăn tứ bề, Cha xứ mới, con chiên giáo hữu lại mới từ tha hương trở về với hai bàn tay trắng, cùng nhau bắt tay vào xây dựng lại giáo xứ khắc phục hậu quả chiến tranh, phần thì lo kế sinh nhai bữa đói, bữa no hàng ngày. Mặt khác, giáo dân Cù Mi đang còn tản lạc khắp nơi chưa về được quê cũ. Nhưng Cha G.B Huê đưa ra quyết tâm, dù có khó khăn thế nào thì cũng phải đưa con chiên vượt qua để về đất hứa và ngày 23.5.1975 Cha Huê dâng thánh lễ đầu tiên tại quê hương Cù Mi này. Mất đi 10 năm 2 tháng 27 ngày, giờ đây Cù Mi mới có Thánh lễ. Sau đó, ngày 09.9.1975 ngôi nhà thờ bằng lá được cất tạm trên sân nhà thờ cũ để ngày ngày giáo dân cùng hiệp lòng dâng lễ tạ ơn Chúa. Đây là ngôi nhà thờ thứ 11 của Giáo xứ Cù Mi. Giáng sinh 1975 Cha con mừng lễ trên đống gạch hoang tàn đổ nát của nền nhà thờ cũ. Hai bức tường còn trơ lại che bớt gió mùa đông, sao giăng kín bầu trời, tiếng đàn guita réo rắt, hòa với giọng hát rộn ràng mừng Chúa sinh vang xa. Đom đóm làm nền sáng cho Chúa Hài Đồng, còn rừng âm u như ấm tình người giáo hữu sung sướng và vui mừng vì đã được về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Nhờ hồng ân Chúa ban và sự hộ phù của Mẹ Maria Hồn Xác Lên Trời, Cha G.B đã từng bước đưa giáo dân vượt qua cảnh khó khăn. Song song với đời sống đức tin, dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết đã cho các Dì về giúp giáo xứ. Dì Anna Đoàn Thị Mến và Anna Nguyễn Thị Liêu là hai Dì chịu cực khổ với giáo xứ nhiều nhất, bửa đói bửa no, bị đuổi tới đuổi lui mà vẫn bám trụ. Hai Dì dạy giáo lý, dạy hát, dạy lớp tình thương và hướng dẫn sinh hoạt cho thiếu nhi. Nhờ thời gian phục vụ này của 2 Dì mà Cù Mi hôm nay mới có 1 số nữ tu, chủng sinh và nhiều ơn gọi khác.
(Nhà thờ Cù Mi thứ 12) |
Đây là ngôi Nhà thờ thứ 12 của Giáo xứ cù Mi. Mãi đến ngày 29.01.1989 Cha J.B Huê đã trùng tu một lần nữa, xây dựng lại ngôi Thánh đường gọi là khang trang nhất từ trước đến nay. Đây là ngôi Thánh đường thứ 13 của Giáo xứ, mừng vui vì đời sống giáo dân đã ổn định đôi chút, cuộc sống tinh thần thoải mái và cũng để tổng kết lại chặng đường đã đi qua. Cha Huê đã cùng giáo dân long trọng mừng lễ tạ ơn Chúa, khánh thành nhà thờ, và mừng Cù Mi trên 100 năm tuổi. Lần đầu tiên Cù Mi có thánh lễ đại triều. Đức Cha Nicolas chủ tế, Cha Giám tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế cùng hơn 10 Cha dâng Thánh lễ đồng tế. Giáo xứ Cù Mi lúc này có 4 giáo họ chuẩn bị khai sinh. Ngày 07.10.1990 Mân côi tách ra thành lập giáo họ, chọn Đức Mẹ Mân côi làm lễ quan thầy (bổn đạo giáo họ Mân côi đa số là dân kinh tế mới).
(Nhà thờ Gx Cù Mi thứ 13 mừng 100 năm lập xứ) |
Ngày 07.10.1990 Phêrô cũng tách ra thành lập giáo họ và lễ bổn mạng là Thánh Phêrô (bổn đạo giáo họ Phêrô là dân Nghệ An, Hà Tỉnh di dân vào thời Cha J.B Huê). Giáo họ Antôn được hình thành, nhưng mãi đến ngày 13.7.1994 mới có thánh lễ đầu tiên (dân Hà Tỉnh đến sau). Giáo họ Giuse, một số giáo dân tha phương đến xứ năm 1977. Năm 1994 mới có thánh lễ tại đây và ngày 01.12.1999 Nhà nguyện Giuse được khởi công xây dựng và ngày 29.4.2000 khánh thành có Đức Cha Nicolas tham dự. Thời gian này các Cha Dòng Chúa Cứu Thế cũng thường đến giảng và cấm phòng cho giáo dân trong giáo xứ. Năm 1992 có thầy Giuse Phạm Đức Triêm thuộc Dòng Chúa Cứu Thế đến giúp dạy Anh văn, dạy văn hóa cho trẻ em trong xứ. Thỉnh thoảng Cha Gierado Lê Văn Hòa (dòng CCT) cũng về dâng Thánh lễ. Năm 1993 có Cha Thừa thuộc Dòng Chúa Cứu Thế về Cù Mi nghỉ hưu và Ngài cũng giúp Cha Huê dâng lễ cho giáo xứ (cuối năm 1993 Cha Thừa về dòng). Cuộc vui nào cũng tàn, Cha J.B Huê đã ở Cù Mi 19 năm, nay Cha phải đi nhận nhiệm sở mới. Ngày 11.6.1994 Cù Mi đón nhận Cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Vân Nam (22) về giúp xứ. Tiếp tục công việc Cha Huê còn dở dang, Cha Nam cho xây dựng hàng rào nghĩa địa, đúc tượng Thánh giá, làm sân lễ và trồng cây trên nghĩa địa, sửa sang lại những con đường nhỏ trong giáo xứ. Tu sửa lại đập nước Bà ôn và mương Du Đế (kinh phí do Đức Cha Nicolas đài thọ), xây hàng rào chung quanh nhà xứ. Thời kỳ này là thời kỳ mà giáo xứ phải tiến hành xây dựng nhiều nhất. Ngày 01.10.1998 có Cha Giuse Phạm Thọ (P7) về phụ giúp Cha Nam coi giáo xứ cùng phục vụ 4 giáo họ. Thời gian này giáo xứ thực hiện lối sống nề nếp, kỷ luật. Cha Thọ quan tâm đến học hành của các em trong giáo xứ, đặc biệt là em có hoàn cảnh khó khăn học giỏi. Vào đầu năm học Cha thường phát thưởng cho những em có thành tích trong học tập, quà cho các em thi đỗ Đại học. Do vậy, trình độ văn hóa con em giáo xứ được nâng lên.
Đây là Nhà thờ thứ 14 của Gx Cù Mi. Nhà thờ được đúc bằng bêtông-cốt thép rộng lớn, uy nghi với tháp chuông cao trên 30m, trang trí nội thất nhà thờ chất lượng cao, đài Mẹ được xây cất với tượng Mẹ cao 3m được tạc từ đá hoa cương chắc và đẹp, toàn bộ khuôn viên của Thánh đường đã được hoàn toàn đổi mới với tổng kinh phí xây dựng trên 5 tỷ đồng. Đây là công trình thế kỷ như một Hồng ân mà Thiên Chúa và Mẹ Maria ban tặng cho giáo xứ Cù Mi qua bàn tay tài năng của cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng Sáng.
Trãi qua bao nỗi thăng trầm, từ 9 gia đình, nay giáo xứ Cù Mi đã vững vàng, địa bàn rộng lớn, đông đảo giáo dân. Trên 754 gia đình và hơn 2.749 giáo dân, 3 giáo họ đã tách ra và được nâng lên Giáo xứ (Giáo xứ Thánh Giuse, Giáo xứ Mân côi (giáo họ Antôn của giáo xứ Mân Côi cũng được nâng lên thành Giáo xứ AnTôn ) và Giáo xứ Hồ Thắng nay đổi tên thành giáo xứ Vinh Thắng) đời sống đức tin đang được chăm sóc. Bộ mặt giáo xứ văn minh và tươi sáng hơn, sinh hoạt các đoàn thể tiến triển nhiều (nhất là thiếu nhi). Trên 135 năm, biết bao công sức, bao mồ hôi, máu và nước mắt của các Cha xứ, các ông Trùm, các Thầy, các Dì, các tiền hiền đã đổ xuống trên mãnh đất này để có được một Cù Mi như hôm nay, Cù Mi vững vàng trong đức tin, Cù Mi văn minh, ổn định về kinh tế, một Cù Mi tươi đẹp và hạnh phúc. Giáo dân Cù Mi vô cùng cảm phục, luôn ghi khắc trong tâm những công ơn to lớn mà các Tiền nhân đã mang lại. Là miêu duệ của 9 tiền hiền xưa, con cháu chúng ta hãy nhìn vào tấm gương cha ông, noi theo gương các Ngài luôn biết sống hy sinh và phục vụ, khắc phục mọi khó khăn, cố gắng vươn lên để khỏi hỗ thẹn khi thắp nén hương kính nhớ ông bà tổ tiên trong những ngày đầu năm mới.
ĐỨC CHA FRANCOIS XAVIER CAMELBECKE HÂN LẦN ĐẦU TIÊN ĐẾN CÙ MI
Đó là vào năm 1899 khi Cù Mi đang được Cha Bovin Nhã coi sóc. Cha Nhã đã cùng với Giáo dân của ngài hân hoan đón mừng Đức Cha từ Quy Nhơn chinh thân vào Cù Mi thăm Giáo dân và ban bí tích Thêm Sức. Cùng đi với Đức Cha, còn có Cố Đề, vị Linh mục thừa sai đã nhiều lần kinh lược Cù Mi. Lần đầu tiên kể từ ngày lập xứ, Giáo dân Cù Mi mới được một dịp trọng đại như thế này.
Trong số những người lãnh nhận bí tích Thêm Sức năm ấy, sổ sách còn ghi lại được mấy người như ông Trần Rẫy, ông Trương Khương và ông Nguyễn Tạo.
Một biến cố lớn lao như vậy, không chỉ có Giáo dân Cù Mi hân hoan phấn khởi, mà người lương, người dân tộc Chăm cũng quan tâm không kém. Họ đến thật đông, vây quanh nhà thờ suốt giờ lễ, miệng tấm tắc khen Đức Thầy có cái áo, cái mũ và cái gậy đẹp và oai phong quá!
C. NHỮNG NIÊN BIỂU QUAN TRỌNG
- 13.05.1885 : Ban hành chiếu Cần Vương
- Khoảng 1887 : Cha Huỳnh Công Ẩn và 09 gia đình đến Cù Mi
- 1893 : Cha Ẩn rời Cù Mi, cha Thiên về thay
- 1894 : Cha Sanh đến Cù Mi thay Cha Thiên
- 1895 : Cha Bovin Nhã đến Cù Mi
- 1899 : Cù Mi thuộc về địa phận Đông Đàng Trong
- 1900 : Cha Sao đến Cù Mi
- 1902 : Cha Phuông thay cha Sao
- 1903 : Cha Thao đến thay cha Phuông
- 1904 : Các cha J. Guegnard Lộc và Simon Chánh làm phó
- 1912 : Cha Gustave Lefevre
- 1916 : Cha Phêrô Tiễn
- 1918 : Cha Giuse Trần Hiếu Lễ đến Cù Mi
- 1920 : Cha Phêrô Thể
- 1923 : Cha Giuse Trần Hiếu Lễ tái giúp xứ Cù Mi
- 03.02.1924 : Đông Đàng Trong được đổi thành Địa phận Sài Gòn
- 1928 : Cha Micae Nguyễn Văn Giàu về thay cha Lễ
- 1930-1934 : Cha Giàu xây dựng nhà thờ mới kiểu Âu châu
- 1935 : Cha Maccô Châu
- 1938 : Cha Micae Nguyễn văn Giàu tái giúp xứ Cù Mi
- 1946 : Kháng chiến bùng nổ
- 1947 : Lệnh “Tiêu thổ kháng chiến” Nhà thờ bị đốt
- 1947 - 1954 : Dân Cù Mi lánh nạn trên rừng
- 1948 - 1949 : Hai cha Kính và Luật ghé thăm giáo dân Cù Mi
- 23.10.1954-10.1955 : Cha Troget đến Cù Mi
- 10.1955-04.1957 : Cha Phaolô Phan Tùng Lộc đến thay cha Troget
- 05.07.1957 : Thành lập giáo phận Nha Trang
- 05.1957 : Cha Viot Nhơn coi sóc Cù Mi
- 01.1960 : Cha Gerard Moussay
- 15.04.1961 : Cha Vinh Sơn Nguyễn Đạo Quán đến Cù Mi
- 1965 - 1973 : Dân đi lánh nạn ở Tân An
- 29.03.1973 : Cha Roget Delsue Sáng đến Cù Mi
- 11.1973 : Cha Roget Delsue Sáng sang Pháp chữa bệnh
- 20.02.1974 : Cha Roget Delsue Sáng về lại giúp xứ Cù Mi
- 11.1974 : Cha Roget Delsuc bệnh nặng và mất tại SàiGòn
- 30.01.1975 : Thành lập giáo phận Phan Thiết
- 20.05.1975 : Cha JB Hoàng Thanh Huê - Quản xứ Cù Mi
- 1987 : Thành lập giáo họ Mân Côi
- 1989 : Trùng tu nhà thờ Cù Mi
- 1990 : Thành lập giáo họ Antôn
- 1993 : Thành lập giáo họ Giuse
- 11.06.1994-13.05.2001 :Cha Fx Nguyễn Vân Nam - Chánh xứ Cù Mi (Cha Giuse Phạm Thọ - Phó xứ).
- 13.05.2001-04.2002 :Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu - Chánh xứ Cù Mi (Cha Giuse Phạm Thọ Phó xứ).
- 20/08/2002-20/08/2003 :Cha Giuse Phạm Thọ - Quản nhiệm xứ Cù Mi (04-2002 Cha Giuse Hồ Sĩ Hữu du học)
- 21.08.2003 :Cha Phêrô Nguyễn Đình Sáng - Chánh xứ Cù Mi.
- 28-08-2003 :Cha Phêrô Nguyễn Tấn Luật – Phó xứ Cù Mi.
- 22.02.2005 :Lễ Đặt Viên Đá Đầu Tiên xây dựng nhà thờ mới.
- 28-03-2005 :Cha Phêrô Nguyễn Đình Long – Phó xứ Cù Mi.
- 02.05.2005 :Khởi công xây dựng nhà thờ.
- 06.11.2006 :Giáo họ Giuse được nâng lên hàng Giáo xứ và đón LM JB Nguyễn Hồng Uy Quản xứ tiên khởi.
- 10.11.2006 :Cha Giuse Nguyễn Văn Soi - Phó xứ Cù Mi.
- 28.02.2007 :Khánh thành nhà thờ mới.
- 06/02/2009-17/05/2012 : Cha Yn Nguyễn Văn Hảo - Quản xứ Cù Mi.
- 07/02/2009 :Cha Giuse Nguyễn Văn Soi mãn nhiệm sở Cù Mi.
- 08.10.2019 đến 03/02/2023: Cha Phêrô Nguyễn Hữu Duy – Chánh xứ Cù Mi.
- 31.08.2020 đến 30/01/2023: Cha GB Nguyễn Linh Kha - Phó xứ Cù Mi.