Chúa Nhật 17 Thường Niên
|
|
Phúc Âm
Gioan 6:1-15
1 Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ
Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria.
2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ
từng được chứng kiến những dấu lạ Người làm cho những kẻ đau ốm.
3 Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ.
5 Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo
dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: "Ta mua đâu ra bánh cho
họ ăn đây?"
6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã
biết mình sắp làm gì rồi.
7 Ông Philípphê đáp: "Thưa có mua đến hai
trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút".
8 Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông
Simon Phêrô, thưa với Người:
9 "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh
lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!"
10 Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta
ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn
ông đã tới khoảng năm ngàn.
11 Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn,
rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy,
ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ:
"Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm
chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng.
14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói:
"Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!"
15 Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem
đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
|
|
·
|
Chi
Tiết Hay
·
Bài đọc "hóa bánh ra nhiều" hôm nay
là phần đầu của chương 6. Phần còn lại của chương 6 còn có hai tường thuật:
"Đức Giêsu đi trên mặt nước" và "Đức Giêsu là Bánh Hằng
Sống." Cả chương này quy về đề tài "Đức Giêsu là Bánh Hằng
Sống."
·
Đức Giêsu đến để thay thế lối sống cũ của Cựu
Ước. Chúng ta thấy bài này có nhiều điểm tương đồng với câu chuyện Xuất Hành:
Đức Giêsu vượt qua bên kia hồ Galilêa (c. 1) ám chỉ Môsê (Maisen) vượt qua
Biển Đỏ; Đức Giêsu lên núi (c. 3) ám chỉ núi Sinai; lễ Vượt qua (c. 3) ám chỉ
lễ Vượt qua của Đức Giêsu; và bánh (mì) ám chỉ manna.
·
Bánh (mì) là món ăn chính của người Do thái,
cũng giống như cơm của người Việt. Cựu Ước đề cập đến bánh không men, bánh
tiến, và manna (tức bánh bởi trời). Bánh là biểu tượng của sự sống. Thế nhưng
trong Tân Ước, Đức Giêsu nói: "Con người sống không nguyên bởi
bánh," và "Ta là bánh hằng sống."
·
Người Do thái tin rằng đồ ăn là tặng phẩm của
Thiên Chúa; vì thế, họ thường tạ ơn Thiên Chúa trước những khi ăn, như Đức
Giêsu đã làm (c.11). Cũng vì thế, Đức Giêsu truyền nhặt những miếng bánh ăn
thừa.
·
Việc hóa bánh và cá ra nhiều cho chúng ta thấy
Đức Giêsu quan tâm đến sự sống thể xác của mọi người. Thế nhưng quan tâm
chính của Ngài là giúp mọi người, qua các phép lạ, có một lòng tin xâu xa
hơn.
·
Hai câu 14 và 15 là lời giải thích và kết luận
của Gioan; tác giả cho thấy dân chúng hiểu lầm Đức Giêsu là vị vua, kiêm ngôn
sứ, đến để giải phóng dân tộc. Thế nhưng sứ mệnh của Đức Giêsu không phải
thế! Ngài đến để cho chúng ta thấy sự thật; Ngài là đấng Mêsia (Cứu thế) phải
chịu đau khổ và chịu chết.
|
Một
Điểm Chính
Đức Giêsu là Bánh
Hằng Sống.
Đức Giêsu không những nuôi sống thể xác chúng ta mà còn dẫn
dắt chúng ta đến một đời sống đức tin xâu hơn: Ngài là Bánh Hằng Sống, ban sự
sống cho chúng. Ngài là con đường đưa chúng ta đến với Chúa Cha.
|
|
Suy
Niệm
1. Đức
Giêsu nói các môn đệ phải thu nhặt những miếng bánh dư; và họ "chất đầy
được mười hai thúng." Trong xã hội hưởng thụ này, chúng ta phí phạm đồ
ăn, tài năng, tài nguyên, và vật chất. Vậy chúng ta phải làm gì với những đồ
dư đó?
2. Em
bé đã cộng tác với Đức Giêsu bằng năm chiếc bánh và hai con cá; chúng ta đã
dùng tài năng để cộng tác với Ngài ra sao?
3. Khi
rước lễ, chúng ta rước Chúa Giêsu, rước Bánh Hằng Sống. Bạn chuẩn bị thế nào
trước khi lên rước lễ? Sau khi rước lễ bạn có những cảm tình nào?
4. Từ
câu số ba, rước lễ giúp đức tin bạn thế nào?
|
Lời Chúa: 2V.
4, 42-44; Ep. 4, 1-6; Ga. 6, 1-15
1.
Cộng tác với Chúa.
Hãy
cộng tác với ơn Chúa.
Thánh
Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng
ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài,
bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác
của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.
Hẳn
chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho
những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay,
Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và
hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một
bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường.
Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng
ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường
làm trong dòng lịch sử.
Thực
vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng
tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của
dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng
lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.
Bước
sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như
thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến.
Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ
của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.
Mười
hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt
nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa,
thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng
nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và
ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.
Nhìn
vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết
bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng
tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.
Rất
có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động
của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một
giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan
trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu
thánh Đức Kitô.
Bởi
đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa
hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân
cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?
2.
Bánh hóa nhiều.
Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến
với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự
nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê
một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm
đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không
có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là
phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu
trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho
người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được
trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện
cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ
em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới
sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành
Calcutta.
Từ
câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy:
Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài
thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực
hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều
mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế
tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.
Cũng
trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một
mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy
mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói
điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận
và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp,
vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm
xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả
năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến
chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn
Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày
hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay,
Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy
chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ
miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.
Tóm
lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt
những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều
gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của
chúng ta.
3.
Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Có
người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho
linh hồn.
Khi
đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa
chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài
đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.
Đức
Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến
Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân
xác và là thân xác.
Khi
thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ
thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài
trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui
được trọn vẹn.
"Chúng
ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức
Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ.
Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất
lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người
bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá
nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm
ngàn người.
Thế
giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh
thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói
nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo
hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...
Có
bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù
họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất
cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc
của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn
lên các giá trị tinh thần.
Thiên
Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo
ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn
nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị
hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh
tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con
người như Đức Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bạn
có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không?
Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
·
Bạn
nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và
nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con
mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.
Con
mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu
yến tiệc linh đình.
Con
mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay
những người ăn xin.
Con
mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân
như anh em.
Con
mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy
người đi nghỉ.
Lạy
Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của
trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và
ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực
hiện những ước mơ đó.
4.
Đào tạo trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền
hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một
người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin
tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị
nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập
tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.
Tâm
hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn
của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm
được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc
họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa
nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua
cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa
bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho
ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người.
Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.
Bài
học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc
làm cụ thể. Lòng
cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc
làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm
thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương
lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu
thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động.
Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn
cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm
thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa.
Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu
bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.
Bài
học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng
Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành
bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng
góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để
Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình.
Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của
ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha
thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt
phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán
bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi
dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho
Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn
người.
Bài
học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và
phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người
ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu
bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa
dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải
Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh
em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm
vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không
phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người
giầu có tiêu xài phí phạm.
Bài
học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống
hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con
người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp
thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói
khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói
lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn
đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một
việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển
toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ
tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị
tâm linh.
Với
những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim
chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại.
Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự
cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn
trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm
linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng
là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác
nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy
Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Hãy
kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2.
Bạn
có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là
cần thiết không?
3.
Nhiều
lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho
được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4.
Lòng
cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?
5.
Dịp may bỏ lỡ – Maurice Brouard.
Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một
đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo,
quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày
người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối
lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ:
Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót,
người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không
biết nắm lấy thời cơ.
Qua
dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản
ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ
hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm
chính trị.
Sự
lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau
bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà
qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng
người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế – vào thời
Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì
vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu
vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian.
Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút
lui lên núi một mình.
Tại
sao phải lẩn tránh?
Tại
sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài
lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được
Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi
kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với
những kẻ thân thích của Ngài: “Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và
cũng không nhận biết Thầy” (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói:
“Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha” (17,25). Chúa Cha, Chúa Con,
Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ,
phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều
chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở
đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính
yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm
của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ.
Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng
một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em
mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu
tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.
Câu
hỏi.
Chúng
ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến
trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng
được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi
cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công,
thù ghét và cho các ngẫu tượng không?
Lời
Chúa và Thánh Thể.
Thánh
Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của
chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng
ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.
6.
Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Thời
gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết
và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã
được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ
của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những
người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài.
Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.
Chương
thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với
năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám
đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một
cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông
người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.
Thánh
Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là
một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa
của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo
chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên
Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: “Lạy Chúa bởi thánh giá
và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế
gian.”
Thánh
Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã
hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là
không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng
cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị
những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì
không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.
Trong
câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy
tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. “Từ Eucharist có
nghĩa là dâng lời tạ ơn”. Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã
kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa
Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các
môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã
xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên
Thánh Thể đặc biệt.
Còn
cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta
nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của
người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: “Giêsu Con Thiên
Chúa, Đấng cứu độ”. Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của
chữ cá: “ICHTHUS.” Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ
chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài
đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng
chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của
lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô:
“Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại,
Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta”.
Vì
Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan,
và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.
7.
Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Phép
lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh
hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30-43. Các Phúc âm Nhất lãm –
nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá
trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.
Đàng
khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu
biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn
đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân
chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất
đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch
quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các
phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại
càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.
Biến
cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan
cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ
ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là
một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được
như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn
tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ
gặp sau này.
Bài
tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:
1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa
Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua
bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ
vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ,
không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát
cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6,
41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa
Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.
Đó
là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với
Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.
Chúng
ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta,
nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?
2) Niềm tin vâng phục phải được sống
thực sự.
Tình
trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn
dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.
Chúa
Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ,
ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng
Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm,
họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng
ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin
chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?
Chúng
ta đợi gì nơi Chúa Giêsu và Tin Mừng?
8.
Góp phần làm nên phép lạ.
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề
“Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ
ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm
đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay
Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô
gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm
cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên
xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống
con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ
dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch
kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò
bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc
nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền
cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được
thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại
nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng
chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho
chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề
chợp mắt ngủ được.
Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến
với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà
tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền
bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không
khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm
lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không
có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà
dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học.
Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà
và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.
Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người
phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang
bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30
viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân
viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai
khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.
Thưa
anh chị em,
Tôi
cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và
bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê
nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của
cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn
dư đến 12 thúng.
Đó
cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của
bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội
vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngỏ
cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ
đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả
khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một
cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải
một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương
lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay
Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc
đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.
Lời
Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang
đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để
Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi
năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và
như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với
chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị
em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh
chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các
khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị
em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ
vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm
và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho
các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con
người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.
Tóm
lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực
hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ
chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của,
lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả
để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân
chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội
nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì
quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no
nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại
những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng
chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng
bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.
Anh
chị em thân mến,
Cậu
bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống
khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng
thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản
đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ
sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta
đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia
sẻ cho nhau. Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để
chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh
trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh
ban sự sống muôn đời.
9. Cám ơn – Arthur Tone.
Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở
thành phố kế cận. Anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ
đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước
mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.
Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y
sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố
ai cũng làm vậy sao?”. Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn
tiếng đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.
Câu
chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng
nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban
của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi
chúng ta ngồi vào bàn ăn.
Đức
Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa
nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm lấy bánh
và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong
bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh Lễ.
Khi
chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy
rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng giúp
chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì
của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. Sự rước lễ giúp ta
thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.
Năm
1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội
là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”. Nhiều người thuộc mọi quốc tịch
đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công
lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người
trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ,
cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.
Việc
biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa
trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn
hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh
cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ,
phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp
người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải
ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.
Còn
quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi tôi rước Mình, Máu
Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ
“tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó
và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với
Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời nguyện
tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
10. Mua đâu ra bánh cho những người
này ăn.
(Suy niệm của
Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của
trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler.
Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã
bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch
khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với
đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du
lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể
chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối
với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.
Trong
các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết
nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc
Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên
người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa
mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì
tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa
biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm
thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập
Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng
thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương
thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của
linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận
mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ
bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh
thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát
Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.
Tại
sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có
ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng
tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà
Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong
tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta
đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước
từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức
tin.
Lạy
Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống
linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn
mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
11.
Tình thương.
Trước
đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
-
Ta
thương dân này.
Qua
Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau
của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài
chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ
Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.
Hôm
nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con
người chúng ta, cả hồn lẫn xác. Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt
vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương
thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo
không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần
gian.
Không
phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho
những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu
danh ngôn đã bảo:
-
Ai
tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật.
Trong
Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
-
Ta
nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con.
Ngài
đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến
lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng
ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo
khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta
chỉ là những người quản lý.
Bởi
đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những
khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ.
Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai
bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống
rỗng, không một hành vi bác ái.
Thế
nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác,
mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.
Phúc
âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu.
Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm
hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
-
Ta
là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh
ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ
trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho
thế gian được sống.
Khi
thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả
quyết một cách mạnh mẽ hơn:
-
Quả
thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta
thì sẽ không có sự sống trong mình.
Và
như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta
phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng,
chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.
Đồng
thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn,
là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.
Từ
bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như
các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
-
Kìa
xem họ thương nhau biết chừng nào.
12.
Hóa bánh.
Việc
hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi
môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và
Gioan thuật lại.
Trong
sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần
học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa.
Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi
để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của
dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh
thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan
tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt
Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều
cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt
Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh
Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người
gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi
ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau
này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là
hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban
chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.
Một
chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ
bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có
năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài
sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một
kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của
người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn
no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa
Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên
Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong
các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả
thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng
thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu
hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.
Phép
lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18:
15-18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê
nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc
bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là
chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính
trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng
Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi
lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo
ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ
tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống
nuôi dưỡng chúng ta hơn.
Lạy
Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của
chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng
Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Mình Máu Chúa.
13.
Cộng tác.
Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu
làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ
là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá
đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này,
mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.
Nhưng
sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và
cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu.
Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có
thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan
trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem
Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm,
chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.
Điều
thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong
bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy
trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với
Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là
thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết
vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa
muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập
đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ
ăn”.
Quả
thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có
những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa
đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự
nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng
vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ
tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không
đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải
biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta
sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho
nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người
khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta
biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay
trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.
Điều
thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước
hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai
con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn
no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc
đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một
mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào
cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức
khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người
thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ
đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những
chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như
thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho
Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn
người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu
trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.
Cũng
vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa
bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được
năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho
chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên
Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần
có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.
Dĩ
nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn
chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát,
hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ,
dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí,
bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường
thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa
tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng
ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.
Trong
cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để
hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt
đẹp hơn.
14.
Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Đức
Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe,
sự thoải mái thể chất - của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu
cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng
có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không?
2.
Trong
một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng
nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ,
không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ,
thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?
3.
Trong
những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là
gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải
quyết tận gốc những đau khổ ấy?
CHIA SẺ
1.
Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị
cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không
nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4).
Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần.
Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng
nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời
Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh
thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần
hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có
nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người
toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.
Bài
Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại
khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà
Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo
dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn
đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc
chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài
không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của
con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng,
nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng. Chính vì Ngài tỏ ra yêu
thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn
sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến
với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong
các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc,
khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo
pháp cho những ai muốn nghe. Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau
cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ
nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải
giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng
rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống
lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho
người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo
điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.
2.
Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của
người chung quanh ta
Nếu
ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như
ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng
nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục
hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai
đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh,
cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi
người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ
ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn.
Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người,
lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ
thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự
hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.
Quả
thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo
kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại»
trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những
người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp
một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy
mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc
gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm
thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả.
Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi
hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những
điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù
đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.
3.
Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy
bất công áp bức
Trong
những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất
công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người
theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta
không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ
thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng
nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội,
thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề
ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển
của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một
chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống
Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại
càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.
Tông
huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa
với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là
“cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những
người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim
Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ
qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa
là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài
trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các
ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì
chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát?
Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn
thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2). Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh
em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã
hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ
nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã
từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người
không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để
dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những
người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng
cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!
Cầu nguyện
Lạy
Cha, chúng con theo Đức Giêsu nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng
tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng
con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu
thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng
con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công
dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm
đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.
15. Tiết kiệm.
Sau
khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người
giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu
bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài. Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi
muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong
hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.
Tại
sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì
thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là
sự thiếu cần kiệm.
Thực
vậy, tục ngữ đã bảo:
Giàu đâu đến kẻ ngủ
trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa
tối ngày.
Nhiều
khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà
quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ
chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao
giờ mới trả cho hết nợ. Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần
thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự
giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải
hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
- Tích tiểu
thành đại.
- Tích cốc
phòng cơ, tích y phòng hàn.
- Nhiều dòng
nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn.
- Đại phú do
thiên, tiểu phú do cần.
Dân
Ý Đại Lợi thì nói:
-
Sự
sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia,
đó là sự tiết kiệm.
Trong
khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
-
Sở
dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm
trong việc chi tiêu.
Tại
nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái
ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh
nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine
có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca
hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong
khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo,
dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.
Sự
tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ
nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm
việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái
không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng
thân.
Có một thanh niên tới một ngân hàng
xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc
thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gút bị rơi trên đất, liền gọi lại và
thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ
không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.
Để
kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù
có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa
thãi thì một đồng, một cắc cũng không.
Đừng
tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai
sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.
16.
Chia sẻ.
Có một lần phát biểu trước quốc hội,
ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng
chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói:
“Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta
đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi
những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó
không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo
khó cần đến nó”.
Những
lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi
vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta
phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị
này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho
những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua
thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì
quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp
nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.
Chúa
muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích
cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh
tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy
thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế,
điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để
cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con
người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.
Tuy
nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi
người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù
chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những
xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ
cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện
những phép lạ.
Vì
thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm
chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn,
là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những
thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của
người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng
Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.
Hoặc
là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn
cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa
đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay
những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông
đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.
Qua
phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi
người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi
chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong
khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu
như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó
để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà
chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông,
một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có
bỏ ra như của bố thí.
Chúng
ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể
hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng
quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình
yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước
trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.
Điều
quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con
mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là
anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước
những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình
yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.
17.
Bánh người nghèo.
Tưởng
tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho
quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui
ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn
vinh lên tận mây xanh.
Sau
khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon
vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ
thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: "Ông này là vị ngôn
sứ, Đấng phải đến thế gian!".
Đã
đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn
sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu
thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép
của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý
Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn
muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp
cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi
biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân
chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn người giàu.
Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho
bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác,
được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ
bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn
sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã
hội".
Chúa
không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên
núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân
chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc
bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan
đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ:
"Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái". Người
Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự
giải thoát của dân tộc họ.
Những
cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những
người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong
đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.
Biểu
tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta
nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là
các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển
này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến
gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.
18.
Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.
HÓA BÁNH RA NHIỀU
Tương quan với sách Nhất Lãm
Bài
trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có
thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu
của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua
biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn
riêng của mình.
Dẫn nhập (cc. 1-4)
Bài
trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với
Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38;
21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất
thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân
vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ
đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp
lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở
trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo
cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với
biến cố Xuất hành và với ông Môsê.
Dấu lạ (cc. 5-13)
Ngay
từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành
mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm
gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát
bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn
mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.
Có
hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42-44),
hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất
là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định.
Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười
hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh
tươi của Tv 23,1-2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời
kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị
ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.
Chúng
ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần
thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ
mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử
hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan
không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và
quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng
bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào
buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn
đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú
này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu
trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu
đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ
cho mọi thế hệ Kitô giáo.
Bài
trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều
gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là
ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các
thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng
đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay
trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên
tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa
Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho
nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu
mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.
Từ
bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được
khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của
Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần
thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch
sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên
Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội
(Thánh Thể)?
Mục
tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn
lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này,
Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân
cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng.
Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm
cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ
trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao
ban cho mọi người.
19.
Chú giải của Noel Quesson.
Trong
suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô,
để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống:
Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục bằng "bài giảng về
Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức
tin do chính Đức Giêsu diễn giải.
Sau
đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông
đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm
và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn
cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn
xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối theo Đức Giêsu
trong đức tin.
Ngày
nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám đông ở Galilê.
Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai
lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến
cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng
qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý
nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước
mắt.
Lúc
ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở
đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành
trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas" trong tiếng Hy
Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra
nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này,
Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay
50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt
qua.
Ngước
mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông
Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" Người nói thế là để
thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên
Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy
nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người
sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác
động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang
tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người
đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: "Hãy cho họ có
cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng
đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về
với cuộc sống "thường nhật" với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta
phải khiêm tốn phục vụ.
Ông
Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi
người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô,
thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con
cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những
vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa bình", "công
lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể làm gì được? Việc này
quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn
đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để
giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các
hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?
Dù
sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một
hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có thể làm thế được lắm
chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng
ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều
kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho
những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.
Qua
những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con
người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao
trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật.
Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn.
Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi
không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối
giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người
kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: "Thuở xưa
có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã
không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn
bánh đó một mình, một cách vụng trộm.
Điều
tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên
thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.
Đức
Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều
cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức
Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá,
Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo
sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?".
Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là
thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người
"tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa
phương tiện của con người.
Đức
Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức
tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong
lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến
mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho
loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường "cơn đói của thể
xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên Chúa" mà dưới cái nhìn
của Người, còn trầm trọng hơn.
Khi
họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo
phí đi".
Đây
không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana:
Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và "rượu” ra nhiều? Quả
thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách
ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là
người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng
những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và
ai đã không có ở đấy?
Dân
chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng
phải đến thế gian".
Con
người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến", chờ một
"giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm,
chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những
"công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta
không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu
hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến
bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả
sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: "Hãy thay
đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một
cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.
Nhưng,
Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh
mặt, đi lên núi một mình.
Cơn
cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với Chúa không có gì là
không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ
chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu
rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta "đóng khung"
Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không
có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó.
Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: "Các người sẽ
không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng". Cái đói
cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc
trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể
hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là
khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa
nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để
“giúp các con", để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ "giải
phóng" chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa
vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người lui vào thanh vắng một
mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng
với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu "Người là ai", là
Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên Chúa"? Chương VI của
Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai
(Ga 6,66-71).
20.
Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU
CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Bánh hóa nhiều dư dật.
Tạm
rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu
chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là "diễn từ về Bánh trường
sinh" được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.
Chỉ
có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường
thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin
Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến
cuối.
"Sang
bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu "lên núi " và “ngồi" đó với
các môn đệ.
Người
"nước mắt lên" và nhìn "thấy đông đảo dân chúng" đến với
mình.
-
Hoàn
toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho
họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh
cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
-
Dù
chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông
chừng 5000 người), Người vẫn nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.
Người
cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều.
Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
- Sau cùng
biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh
mặt đi lên núi một mình.
2.
Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình
thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa
xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan
báo bí tích Thánh Thể.
Chuyện
kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu
triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
] Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc
hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê. Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa
mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá
cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng.
Các
người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
-
"Làm
sao mà đủ cho 100 người được? " người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi.
-
Thưa,
có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ...", ông Phipphê trả lời.
Cùng
ra lệnh bảo làm: “Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh. "Anh
em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Đức Giêsu bảo.
Bánh
ăn rồi đều cùng có dư thừa:
"Họ
ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai. "Họ chất
đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.
Như
vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình
ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh
thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý
rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy
mọi người nữa.
] Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ
nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành.
Đức
Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và
Manna mới cho dân Người.
Tác
giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào "ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố
vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một
cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt
qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57).
Còn
về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây" chính là
tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu
trách ông trong hoang mạc: "Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây?
(Ds 11,3).
Nhưng
X.Léon-dufour nhận xét thêm: "Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã
biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp "làm" đây sẽ không chỉ
là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ
ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ
những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều
này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay ("Lecture de l'Evangile selon saint Jean", cuốn
11, Seuil, trang 107).
Nếu
Gioan thêm câu "Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những
thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy.
Ngần
ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để
dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.
Nhưng
nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời
cũng báo trước Bí tích Thánh Thể.
A.Marchadour
nhận xét: "Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn
(c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ
hành Thánh Thể.
Như
ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ
phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của
ba Tin Mừng nhất lãm). "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12)
lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt,
rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính
Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và
sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo"
("L'evangile de Jean", Centurion, trang 101)
3.
Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây
là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng
hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên
Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: "Hẳn ông này
là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian ".
Nhưng
thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết,
thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam
hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: "Họ
sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”.
Vì
thế Đức Giêsu lánh mặt đi "lên núi một mình”. Người không phải là "vi
ngôn sứ" đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.
A.Marchadour
kết luận: "Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm
khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc,
thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo
Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn
một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào
Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức
Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?
Trong
tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của
Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của
mình vì thế Gioan đã đẩy các môn-đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập
trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho
các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau
câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa
biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay
được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi
người" (O.C. trang 101)
BÀI ĐỌC THÊM.
1.
"Một dấu" chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu
biết"
Trong
tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới
lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm
ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận
được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?
Chắc
hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật
khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều
"người môn đệ Chúa yêu" trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng.
Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu
chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú
Chúa ban cho.
Dân
chúng thích được ăn “bánh ngọt" mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy
tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là
chính lương thực. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những
dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6,26). Manna trong sa
mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng
khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người
muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ
mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (NL 8.3b).
Lương
thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng
đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm
thấy ở đấy là nghi lễ "Bẻ Bánh" tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành
Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi
Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.
Giờ
đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước "một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm
phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta
ước muốn tôn Người làm Vua-cứu-tinh vậy".
2.
“Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể”
(Mgr. L. Daloz, trong
"Nous avons vu sa gloire". DDB, trang 130).
Những
kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ
ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất
ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một
cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh
cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều
đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai
chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho
Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính
trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao
giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc
trường sinh.
3.
“Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”.
(H.Vulliez, trong
"Dieu si proche. Năm B", Desclée de Brouwer, tr.76-77).
Dấu
lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận
Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ
hiểu!
Nhưng
rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và
rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để
họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh
sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ
đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ
lương thực "trường tồn đem lại phúc trường sinh" (6,27). Phải có được
sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị
thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được
Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.
Chúng
ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu
hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn
trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của
họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa
muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi
bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay,
không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có
tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh
thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không
say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả
lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác
kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm
cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm
đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem
lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh 'Thể".
0 nhận xét:
Đăng nhận xét