Chúa Nhật 15 Thường Niên
|
|
Phúc Âm
Mác-cô 6:7-13
7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi
từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỵ.
8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì
đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt
lưng;
9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
10 Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi
anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.
11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."
12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn
năn sám hối.
13 Các ông trừ được nhiều quỵ, xức dầu cho
nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.
|
|
·
|
Chi
Tiết Hay
·
Bao bị chứa được nhiều tiền. Nhưng thắt lưng
thì chứa được ít hơn. Đức Giêsu nói đến cả hai thứ để nhấn mạnh rằng các môn
đệ không được mang theo tiền bạc. Trong xã hội hiếu khách thời đó người ta có
thể an tâm đi lại mà không cần mang theo tiền.
·
Theo Máccô thì gậy (để tự vệ) và dép (cần
thiết vì đường sỏi đá) đều được dùng, nhưng theo Matthêu và Luca thì cả hai
thứ này lại bị cấm. Điều cấm cản có vẻ vô lý này thực ra mang ý nghĩa một sự
tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, một niềm tin nơi tha nhân, sẵn sàng chấp
nhận thương tổn, và tập tinh thần bất bạo động.
·
Lời căn dặn phải đi tay không nói lên một sự
vội vàng: phải rao giảng Lời Chúa ngay, không chậm trễ cũng không cần chuẩn
bị.
·
"Khi đã vào nhà nào thì cứ ở lại đó cho
đến lúc ra đi" là lời dạy tránh đi tìm vinh quang cho bản thân, tránh
tìm thăng tiến trong chức vụ khi ảnh hưởng của mình bắt đầu lan rộng, khi được
nhiều người biết đến.
·
Rũ sạch đất là một hành vi tượng trưng và
không bạo động. Một thành phố đã khước từ người khác thì ngược lại cũng sẽ bị
khước từ.
|
Một
Điểm Chính
Các môn đệ tiếp nối sứ mệnh của Đức Kitô bằng rao giảng và
việc làm mà không để bị lệ thuộc vào của cải vật chất. Đức Giêsu cũng dạy các
môn đệ cách xử sự dù là được tiếp đón hay là bị khước từ.
|
|
Suy
Niệm
1. Đức
Giêsu sai các môn đệ đi chữa lành cho những người bị thần ô uế ám hại. Ai là
những người ô uế chung quanh tôi? Ngài muốn tôi làm gì đối với những người
này?
2. Tôi
có sẵn sàng ra đi tay không để rao giảng Lời Chúa hay là tôi cần phải lo cho
tôi có công ăn việc làm, nhà cửa ổn định trước đã? Khi được chấp nhận và khi
bị khước từ tôi sẽ phản ứng ra sao?
3. Đã
có bao giờ tôi đón tiếp, hay ngược lại, đã xua đuổi những anh chị em mang Lời
Chúa đến với tôi không?
|
Các bài
suy niệm CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Am. 7,
12-15; Ep. 1, 3-14; Mc. 6, 7-13
1. Tông đồ.
Có một câu chuyện
tưởng tượng kể lại:
Sau khi hoàn tất sứ mạng trần gian, Chúa
Giêsu trở về trời và được thiên thần Gabriel ra tiếp đón. Gặp Chúa, thiên thần
lên tiếng hỏi ngay: Lạy Chúa, xin Chúa cho biết công trình của Chúa sẽ được
tiếp tục như thế nào ở dưới thế? Chúa Giêsu đáp: Ta đã chọn 12 tông đồ và Ta đã
trao phó cho họ sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho đến tận cùng bờ cõi trái đất.
Nghe Chúa trả lời như thế, thiên thần Gabriel hình như chưa hoàn toàn thoả mãn
nên hỏi tiếp: Nếu chẳng may họ thất bại thì Chúa có dự tính chương trình nào
khác nữa không? Chúa Giêsu mỉm cười: Ta không dự tính một chương trình nào
khác, Ta tin tưởng ơ họ.
Đúng thế, Chúa
Giêsu hoàn toàn tin tưởng vào các tông đồ, mặc dầu xét về nhiều phương diện,
khi Ngài về trời, Ngài đã để lại một nhóm tông đồ ít ỏi xem ra không đủ khả
năng để chu toàn sứ mạng đi rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Hơn thế nữa, ngay
cả sau khi Chúa đã sống lại, đức tin của các ông vẫn còn chập chững và chao
đảo. Chẳng hạn lần kia Chúa Giêsu gặp gỡ họ trên bờ biển Tibêria, sau khi nghe
theo lời Chúa truyền, các ông đã được một mẻ lưới đầy cá. Lên bờ, thấy sẵn có
than hồng, với cá đang nướng và bánh. Các ông được Chúa ân cần mời: Hãy ăn đi
các con. Tuy nhiên các ông vẫn còn nghi ngờ, chưa nhận ra ngay là Chúa. Và sách
Tông Đồ Công Vụ còn cho chúng ta thấy thái độ sợ sệt và khép kín của các ông
sau khi Chúa đã về trời. Thế nhưng, chính nơi các ngư phủ quê mùa này mà Chúa
Giêsu đã trao phó trọn vẹn sứ mạng hoàn tất chương trình Chúa muốn thực hiện.
Đó là chương trình biến trần gian trở thành Nước Trời. Cũng trong sách Tông Đồ Công
Vụ, chúng ta còn thấy được một hình ảnh khác hẳn khi các ông nhận lãnh Chúa
Thánh Thần.
Thực vậy, các ông
đã can đảm ra khỏi những gian phòng đóng kín, nơi các ông đã từng sợ hãi và
trốn tránh, để lên đường rao giảng Tin Mừng Đức Kitô ở khắp mọi nơi, bất chấp
mọi cấm đoán, mọi đòn vọt, mọi giam cầm, sẵn sàng chấp nhận cái chết để nêu cao
niềm tin. Tất cả các tông đồ, ngoại trừ một mình Gioan, đều đã lấy máu đào để
minh chứng lời mình rao giảng.
Nước Trời từ một
hạt cải nhỏ bé, đã trở thành một cây to cho chim trời tới đậu. Đã hai mươi thế
kỷ trôi qua, có biết bao nhiêu người, thuộc đủ mọi thành phần, mọi sắc dân, đáp
ứng lời mời gọi của Chúa Giêsu, Đấng là đường là sự thật và là sự sống.
Và bây giờ đến lượt
chúng ta. Đúng thế, có lẽ lúc này Ngài đang nhìn mỗi người chúng ta và đưa ra
một câu hỏi để chúng ta có được một thái độ dứt khoát. Câu hỏi ấy như thế này:
Còn con, con có muốn trở nên tông đồ, cộng tác với Ta bằng lời nói cũng như
bằng chính việc làm và cuộc sống của mình, để đem Tin Mừng đến cho những người
chung quanh hay không? Thế nhưng, trước câu hỏi ấy, chúng ta đã trả lời như thế
nào và chúng ta sẽ làm gì để đáp trả tiếng Chúa.
2. Tông đồ.
Một trong những ưu
tư lớn trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu, đó là tìm những người cộng tác
với mình trong công cuộc truyền bá Phúc âm, bởi vì Ngài luôn ý thức rằng: Lúa
chín thì nhiều, mà thợ gặt thì ít. Chính vì thế Ngài đã kêu gọi và chọn lựa các
môn đệ. Ngài đã để cho các ông sống bên cạnh mình và trực tiếp huấn luyện các
ông, bằng cách để cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, xem những việc
Ngài làm. Và cắt nghĩa cho các ông những điều các ông chưa hiểu.
Rồi hôm nay, Ngài
đã sai các ông đi để thực tập truyền giáo. Và trước khi các ông lên đường, Ngài
đã căn dặn: Đừng mang theo bao bị, đừng mang theo cơm bánh, đừng mang theo tiền
bạc và đừng mặc hai áo, nghĩa là Ngài bảo các ông phải ra đi trong một hoàn
cảnh bấp bênh nhất, để tập trung vào việc rao giảng Tin Mừng, cũng như luôn phó
thác vào tình thương và quyền năng của Thiên Chúa.
Lầm lỗi nặng nề
nhất của người tông đồ hăng say và nhiệt thành, đó là họ quá cậy dựa vào tài
năng riêng của mình mà quên mất tác động và sự trợ giúp của Chúa, bởi vì không
có Chúa, chúng ta không thể làm được gì. Hay như lời thánh Phaolô xác quyết:
Phaolô trồng, Apollo tưới, nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng đem lại kết quả.
Đối với chúng ta
cũng vậy, một khi đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Bí tích Thêm sức, chúng ta
cũng được Chúa kêu mời cộng tác với Ngài trong công cuộc truyền bá đức tin, để
rồi chúng ta cũng sẽ là những môn đệ của Ngài. Và cách thức để chúng ta thể
hiện ơn gọi và sứ mạng của mình một cách hiệu quả nhất vẫn là đời sống gương
mẫu của chúng ta. Vì thế, sau khi công bố tám mối phúc thật, Chúa Giêsu đã
truyền dạy: Các con là ánh sáng thế gian. Ánh sáng ấy phải chiếu dãi trước mặt
thiên hạ, để mọi người nhìn thấy những công việc của các con mà ngợi khen Cha
các con là Đấng ở trên trời.
Tục ngữ Việt Nam
cũng bảo: Lời nói như gió lung lay, việc làm như tay lôi kéo. Chính đời sống
gương mẫu của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn có sức lôi cuốn và hấp dẫn
mọi người đến cùng Chúa.
Tuy nhiên, nói tới
việc tông đồ, nhiều người trong chúng ta vẫn cảm thấy xa lạ bởi vì họ cho rằng
đó là bổn phận của giới tu hành, chứ không phải là bổn phận của họ, những người
giáo dân sống giữa lòng đời. Đây là một quan niệm sai lạc, bởi vì đã là con cái
Giáo Hội, chúng ta đều có bổn phận làm cho Giáo Hội được phát triển, được rộng
mở, tùy theo hoàn cảnh và đấng bậc của mình.
Mẹ Têrêxa Calcutta
kể lại một mẩu chuyện cảm động như sau: Ngày kia có một thiếu phụ cùng tám đứa
con đến gõ cửa xin gạo. Mẹ đích thân trao cho bà ta một bao. Bà nhận gạo rồi
chia làm hai phần, Mẹ ngạc nhiên hỏi tại sao thì bà trả lời: Tôi dành một phần
cho gia đình Hồi giáo bên cạnh vì đã mấy ngày qua, họ không có gì để ăn.
Người nghèo khổ
nhất cũng có thể thực thi tinh thần chia sẻ huynh đệ, nghĩa là họ vẫn có thể
làm việc tông đồ, làm sáng danh Chúa bằng chính đời sống của họ.
3.
Hành trang người môn đệ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ai đi xa cũng phải
chuẩn bị hành trang. Chuyến đi càng xa thì hành trang càng nhiều. Chuyến đi
càng quan trọng thì hành trang càng phải chọn lựa, tính toán. Hôm nay Đức Giêsu
sai các môn đệ đi một chuyến quan trọng: tiếp nối sứ mạng của Người đem Tin
Mừng đến khắp các làng mạc xa xôi. Để chuẩn bị cho chuyến đi quan trọng này,
Đức Giêsu đã giúp các môn đệ sắp xếp hành trang. Sau khi đã loại bỏ những loại
hành trang cồng kềnh không cần thiết, có hại cho nhiệm vụ, Đức Giêsu đã trao
cho các môn đệ những hành trang thực sự cần thiết và hữu ích cho sứ vụ Tông đồ.
Hành trang của người môn đệ là sự gắn bó mật
thiết với Đức Giêsu. Các
môn đệ chỉ được sai đi sau khi đã có một thời gian sống bên cạnh Người. Thời
gian sống bên Đức Giêsu cần thiết để các môn đệ hiểu biết, cảm thông và nhất là
yêu mến, gắn bó mật thiết với Người. Đây chính là hành trang quan trọng nhất.
Người được sai đi phải gắn bó mật thiết với Đấng đã sai mình. Sự gắn bó mật
thiết là nguồn mạch, bảo đảm tính trung thực, là chìa khoá thành công của sứ
vụ. Đức Giêsu đã nêu gương về điểm này khi luôn gắn bó mật thiết với Đức Chúa
Cha, Đấng đã sai Người. Sự gắn bó ấy giúp Người hoàn toàn kết hiệp với Đức Chúa
Cha, trở nên một lòng một ý với Đức Chúa Cha, luôn cầu nguyện, luôn từ bỏ ý
riêng để làm theo ý Chúa Cha. Chính vì thế, sứ vụ của Người đã thành công tốt
đẹp.
Hành trang của người môn đệ là tâm hồn đơn
sơ phó thác. Khi chỉ thị
cho các môn đệ: “không được mang gì khi đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được
mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai
áo”, Đức Giêsu muốn các ông sống trong cảnh nghèo khó để hoàn toàn tin tưởng
phó thác vào Chúa. Tiền của, tiện nghi vật chất dễ tạo ra một thứ an tâm giả
tạo, dẫn con người đến chỗ tự mãn, tự kiêu, tự phụ cho rằng mọi thành công là
nhờ tài sức riêng mình. Vì thế, dễ tha hoá, làm theo ý mình hơn là làm theo ý
Chúa, sắp đặt chương trình cho Chúa hơn là tìm thực hiện chương trình của Chúa.
Nghèo khó sẽ giúp người môn đệ ý thức sự nghèo nàn thiếu thốn, sự yếu ớt của
mình, ý thức đó sẽ giúp người môn đệ biết khiêm nhường, tin tưởng phó thác cho
Chúa. Tôi chỉ là hư vô, là cát bụi. Mọi thành công đều của Chúa, nhờ Chúa.
Những thành công do tài sức con người sẽ mau tàn. Chỉ có công trình của Chúa
mới bền vững. Vì thế đơn sơ phó thác là một hành trang rất cần thiết cho người
môn đệ. Không mang theo gì của loài người, chỉ mang theo niềm tin yêu phó thác
vào Thiên Chúa, đó chính là mang theo tất cả.
Hành trang của người môn đệ là tình liên
đới. Đức Giêsu không sai
các môn đệ đi riêng lẻ, nhưng sai từng hai người một. Người biết khả năng con
người yếu kém, cần có tập thể nâng đỡ mới hoàn thành sứ mạng. Lời chứng của một
cá nhân chưa đủ sức thuyết phục. Cần có sự đồng tâm nhất trí của một tập thể
lời chứng mới thực sự đáng tin. Hơn nữa, Đức Giêsu không sai các môn đệ đi làm
việc với giấy tờ hay đất đai, nhưng sai các ngài đến với con người. Các ngài
phải sống giữa mọi người, nhờ mọi người giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống với họ. Phải
liên đới với con người. Tình liên đới không những cần thiết để giúp các ngài
làm việc tông đồ một cách hữu hiệu. Chính qua tình liên đới mà Tin Mừng dễ dàng
được đón nhận.
Hành trang của người môn đệ là trái tim biết
cảm thương. Đức Giêsu sai
các môn đệ đến với những người đau yếu bệnh tật, hoang đàng tội lỗi, bị quỷ ma
hành hạ. Tức là đến với những người kém may mắn ở đời. Những người nghèo hèn
yếu đuối. Những người bị xã hội bỏ quên. Để đến với những người anh em bé nhỏ,
người môn đệ phải có trái tim biết cảm thương. Các ngài phải mang trái tim của
Thiên Chúa luôn chạnh lòng thương khi nhìn thấy đám đông bơ vơ tất tưởi, túng
thiếu, đói khát. Phải sẵn sàng băng rừng vượt suối đi tìm một con chiên lạc.
Phải mở rộng vòng tay đón nhận đứa con hoang đàng trở về. Phải sẵn sàng tha thứ
cho kẻ tội lỗi thật lòng hối cải ăn năn.
Mỗi người chúng ta
đều là môn đệ của Chúa. Khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa tội và Thêm sức, Chúa
sai chúng ta đi rao giảng Tin Mừng của Người. Tôi thấy anh chị em ở Giáo xứ Cửa
Nam rất tích cực trong việc tông đồ. Nhưng có lẽ anh chị em vẫn băn khoăn,
không biết làm sao để việc tông đồ có kết quả tốt đẹp. Hôm nay, Đức Giêsu cho
ta biết, muốn việc tông đồ có kết quả, ta phải gắn bó mật thiết với Chúa, phó
thác mọi sự cho Chúa, đồng thời phải có tình liên đới và nhất là phải biết cảm
thương anh chị em đồng loại. Một tay nắm lấy tay Chúa, một tay nắm lấy tay anh
em. Một tình yêu anh chị em trong tình yêu mến Chúa. Liên kết mọi người trong
tình yêu mến. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ của ta sẽ đi đúng đường
hướng của Chúa. Với tình yêu mến, chắc chắn việc tông đồ sẽ có kết quả tốt đẹp.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-
Chúa
sai bạn đi làm tông đồ cho Chúa, bạn có cảm thấy điều đó không?
2-
Mỗi khi
đi làm việc tông đồ, bạn thường chuẩn bị những loại hành trang nào, những hành
trang của bạn quan tâm có giống những hành trang Chúa chuẩn bị cho các môn đệ
không?
3-
Theo
bạn, đâu là phương thế hữu hiệu nhất làm cho những người chung quanh nhận biết
Chúa?
4-
Đâu là
những hành trang cần thiết của người môn đệ của Chúa?
4.
Những lời căn dặn cho việc thi hành sứ vụ.
(Suy niệm của
Camille Gagnon)
Hôm nay, xin anh chị em cho phép tôi giảng
một bài hơi nhẹ nhàng một chút, một bài giảng cho kỳ nghỉ hè. Tôi muốn nói về
gia đình Tremblay tuần rồi đã đi cắm trại lần đầu tiên ra sao.
Điều khiến tôi nói về gia đình này, là Tin
Mừng bảo rằng “Lần đầu tiên” Chúa Giêsu sai các môn đệ, từng hai người một, đi
rao giảng, và để giúp họ, Ngài dặn dò họ ngay trước lúc lên đường. Tôi không
biết các môn đệ có hiểu rõ và nghe theo những lời dặn dò này không, nhưng tôi
biết rằng gia đình Tremblay đã không hiểu và không tuân theo, và họ là làm hỏng
kinh nghiệm cắm trại của mình. Và khi nói về kinh nghiệm cắm trại của gia đình
Tremblay, tôi sẽ nói một chút về các bạn và tôi.
“Đừng mang theo hành lý cồng
kềnh”.
Lời căn dặn đầu
tiên của Chúa Giêsu thật rõ ràng: “Đừng mang theo hành lý cồng kềnh”. Vì ông
Tremblay không biết điều gì sẽ xảy ra nên ông đã chuẩn bị mọi sự: Hai túi ngủ
cho mỗi người, những cây cọc để cắm lều, những chiếc ấm lớn nhỏ, thùng dụng cụ,
v.v… Đối với ông Tremblay thà chen chúc nhau trong lều còn hơn là thiếu bất cứ
món gì. Cuối cùng ông hầu như đã dọn hết đồ đạc trong nhà đi và đã phải bận rộn
chuẩn bị đồ đạc cả tuần.
Một người quen cắm
trại, sẽ khôn ngoan hơn. Ít nhất họ biết phải tránh mang theo những hành lý vô
ích. Họ đã hiểu ý nghĩa thật của lời Chúa Giêsu căn dặn. Khi nhìn ông Tremblay
họ thấy được yếu điểm của ông. Trước một công việc đòi hỏi phải dẹp đi mọi nhu
cầu không cần thiết ông lại sợ phải bỏ đi những thói quen và những bảo đảm cho
cuộc sống của mình. Thật ra ông Tremblay nghi ngờ rằng việc cắm trại sẽ không
lấp đầy được cả một tuần lễ nghỉ ngơi, và ông nghĩ sẽ buồn chán khi thiếu tiện
nghi. Thế là, bị kẹt trong đống đồ đạc lỉnh kỉnh của mình, ông không còn thảnh
thơi để có được những ngày nghỉ ngơi thực sự nữa.
“Đừng đi lăng xăng khắp nơi!”.
Lời căn dặn thứ hai
là đừng đi lăng xăng khắp nơi. Nhưng cả ở điểm này nữa, bà Tremblay đã không
thành công. Tuy nhiên, bà đã có ý tốt. Đối với bà, trong tuần cắm trại đó sẽ có
dịp gặp gỡ nhiều người và bà cũng nghe nói rằng khi đi cắm trại người ta rất tử
tế và dễ làm quen. Vậy nên bà không ngồi đấy mà chờ đợi: Bà vội vã đi bước
trước, mỗi ngày bà đi thăm hết mọi người, những chẳng tiếp xúc với ai lâu. Cuối
tuần, bà đã “quen biết” nhiều người, nhưng lại có ít bạn bè. Tuy nhiên, Chúa
Giêsu đã nói: “Khi các con được đón tiếp vào nhà nào thì ở lại đó cho đến lúc
ra đi!”. Điều này có vẻ ngộ nghĩnh. Hiển nhiên là phải ở nơi nào đó trước khi
ra đi. Nhưng, suy nghĩ một chút, ta thấy rằng ta có thể ở nơi nào đó mà không
hiện diện, không bao giờ ở với ai cả. Điều này cũng có nghĩa là chỉ có một cách
để tạo nên những mối liên hệ thực sự với kẻ khác: Đó là dừng lại, đừng bỏ đi
ngay khi vừa gặp sự khó chịu nào đó và đừng sợ làm quen. Chúa Giêsu bảo: Với
thái độ ấy làm sao các con có thể loan báo Thầy. Nói về Thầy thế nào nếu không
tạo được những cuộc gặp gỡ thực sự? Nếu các con chỉ chạy vội hết nơi này đến
nơi khác?
Cuối cùng đừng luyến tiếc gì
cả.
Bọn trẻ nhà
Tremblay trở về rất thất vọng. Chúng cứ tưởng sẽ gặp được nhiều bạn trẻ cùng
lứa tuổi với chúng; dụng cụ thể thao cũ rích; huấn luyện viên về bơi lội bị ốm
hai ngày, hai ngày đẹp trời nhất, v.v… Chúng đã mong một cái gì mới mẻ, nhưng
bây giờ chúng chán cắm trại lắm rồi. Từ nay chúng đã biết cắm trại chẳng thích
thú gì cả. Từ lúc về nhà chúng cứ luyến tiếc mãi những ngày đi chơi thất bại.
Điều Chúa Giêsu căn
dặn cuối cùng là: “Nghe đây! Nếu các con đã thất bại ở nơi nào đó, thì hãy bỏ
đi và để lại tất cả đàng sau mình, nhất là đừng luyến tiếc gì cả. Vì chúng sẽ
chỉ ngăn cản các con bắt đầu lại công việc cách tốt hơn mà thôi”.
Tóm lại sứ vụ của
các môn đệ, cuộc đời của chúng ta, và cuộc cắm trại của gia đình Tremblay lại
chẳng cần những lời căn dặn này sao: “Hãy siêu thoát đối với bản thân; hãy dừng
lại để thiết lập những mối liên hệ thực sự; và hãy quên đi những luyến tiếc để
bắt đầu lại cách tốt hơn”.
5.
Dự định của Cha dành cho chúng ta.
(Trích trong ‘Mở Ra Những
Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Trước khi một tòa
nhà được xây dựng, kỹ sư phải hoàn thành bản vẽ. Trước khi một đội bóng đá
chuyên nghiệp đến một sân nào thì người huấn luyện viên đó phải có một chiến
thuật. Vậy trước khi chúng ta làm một việc gì, phải ý thức về cuộc sống của
chúng ta, chúng ta cần phải có một bản thiết kế; cần phải biết chiến thuật của
chúng ta là gì.
Chúa Giêsu đã giới
thiệu dự định đó trong lúc Ngài ở đây trên mặt đất này, Ngài đã gởi mười hai
tông đồ đi trước Ngài trong công cuộc rao
giảng, và Ngài tiếp tục rao giảng ngày hôm nay xuyên qua Giáo Hội, tuy
nhiên sự thật là dự định của Thiên Chúa không phải là một chân lý lầm lạc hoặc
là một ý tưởng xa vời. Dự định của Thiên Chúa là một con người, con người đó là
người Con của Ngài, Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu thì giống như là một bản thiết
kế đã được mang lấy xác. Chúa Giêsu là chương trình dự định cho đới sống của
chúng ta.
Thánh Phaolô trong
thư gửi tín hữu Êphêsô giải thích dự định mà Thiên Chúa Cha đã hài lòng nơi Đức
Kitô, Đấng đã mang hết tất cả mọi sự trên trời dưới đất vào trong quyền thủ
lãnh của Đức Kitô. Đức Kitô là Đầu và chúng ta là chi thể của thân mình Ngài.
Thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội, thân thể phải đươc trở nên giống như
Đầu.
Bởi vì chúng ta là
một với Đức Kitô ở trong Giáo Hội, chúng thông dự vào mối quan hệ của Người với
Cha. Vì Người là người Con đời đời của Cha, trong ba ngôi, như thế chúng ta
cũng trở thành con cái của Thiên Chúa trong Giáo Hội. Thiên Chúa cũng là một
gia đình gồm Cha và Con được hợp nhất trong một Thánh Thần. Giáo Hội là một gia
đình thiêng liêng ở trên mặt đất này. Chúng ta được sinh ra trong gia đình này
qua phép rửa và phép thêm sức và được củng cố như là con cái của Thiên Chúa qua
việc xức dầu của Thánh Thần.
Thánh Phaolô đã
viết: “Chúng ta đã được đóng ấn bằng Thánh Thần. Sự diễn tả này ám chỉ lối thực
hành của một vị vua hoặc của những người khác, họ đã ấn chiếc nhẫn của mình trên
sáp nóng và sau đó đóng dấu ấn vào một bức thư hoặc một văn kiện quan trọng để
làm bằng chứng xác thực. Khi người ta nhận thấy con dấu của vua, người đó biết
rằng tài liệu này là xác thực. Chúa Thánh Thần cũng xuyên qua bí tích Thêm sức
đã in dấu trên linh hồn chúng ta để xác định chúng ta thật sự là con cái của
Thiên Chúa. Chúng ta thật sự là như thế”
Mối quan hệ của
chúng ta với Thiên Chúa trong Giáo Hội kêu gọi chúng ta đáp trả bằng hai cách.
Cách đầu tiên là phụng vụ. Thánh Phaolô đã nhấn mạnh rằng chúng ta phải ngợi
khen đặc ân của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta qua người Con Yêu Dấu của Ngài:
“Chúng ta đươc tiền định để ngợi khen vinh quang Ngài”. Chúng ta làm viên mãn
sự đáp trả này chính yếu là trong phụng vụ thánh, lời cầu nguyện của chúng ta được
vươn cùng Giáo Hội. Cái đáp trả thứ hai là “cố gắng trở nên thánh thiện và
không tì tích trước ánh nhìn của Thiên Chúa, được tràn đầy tình yêu”. Lối đáp
trả thứ hai được chỉ định như là cách chúng ta sẽ sống. Nó có nghĩa là chúng ta
phải trở nên giống Đức Kitô, không chỉ trong hữu thể của mình nhưng còn trong
tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta nữa.
Bởi vì Đức Kitô là
bản vẽ, là kế hoạch cho đời sống chúng ta, nên phụng vụ không mệt mỏi để giới
thiệu Phúc âm cho chúng ta trong mỗi Thánh Lễ. Trong suốt ba năm và Chúa nhật,
chúng ta được nghe Lời của Chúa trong bốn Phúc âm. Tất cả các sách Phúc âm đều
giúp chúng ta chứng kiến hành động của Chúa Giêsu. Chúng ta thấy bản vẽ của
chúng ta, Con Thiên Chúa đã sống như một con người thế nào. Chúng ta cũng được
giới thiệu lý tưởng để sống đúng. Trong việc lãnh nhận Thân Mình và Máu của
Chúa trong bí tích Thánh Thể, chúng ta được làm cho mạnh sưc1 để có thể theo
được kế hoạch của Thiên Chúa dành cho chúng ta: “ Hãy ngợi khen Thiên Chúa là
Cha Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã ban cho chúng ta trong Đức Kitô mọi
phước lành thiêng liêng trên trời”.
6.
Giáo huấn bằng các việc làm thực tập.
(Trích trong ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Trước hết là một
vài điểm chi tiết để hiểu đoạn văn dễ dàng hơn:
- Nhóm
12 là 12 tông đồ. Đức Giêsu sai họ đi từng hai người một, để họ có thể
nâng đỡ nhau. Cũng có thể là để làm chứng vì luật Do thái về việc làm chứng đòi
hỏi có hai người.
- Chiếc
gậy là vật trợ giúp thông thường cho những người đi đường. Chúa cấm
mang bị. Có lẽ Ngài ám chỉ đến cái bị của các kẻ hành khất làm giàu nhờ của xin
được ở các nơi thờ phượng ít nhiều có khuynh hướng ngẫu tượng. Người ta biết
rằng trong lịch sử Giáo hội đã có xuất hiện các dòng hành khất. Để tránh những
lạm dụng, Giáo hội luôn đề phòng sao cho việc hành khất khỏi lìa xa đối tượng
của nó: việc sinh sống, giúp đỡ kẻ nghèo và các việc truyền giáo. Những lúc nẩy
sinh các lạm dụng là những giai đoạn xuống dốc: các dòng tu và hàng giáo sĩ
không thực hành đức nghèo khó của người môn đệ. Ngược lại người ta biết đến sự
phiêu lưu phan sinh (dòng hành khất đầu tiên do thánh Phanxicô Assisi sáng
lập), đã đem lại cho Giáo hội sự canh tân Phúc âm.
- Đi
đường với hai áo là dấu chỉ của người giàu gi chuyển bằng ngựa.
- Đức
Giêsu sai các môn đệ và nói họ cậy trông vào sự tiếp đãi của dân chúng.
Sự tiếp đãi đó thuộc phong tục của thời đại và mặc lấy tính cách một bổn phẩn
của thành phố và làng mạc với tư cách tập thể cũng như cá nhân.
- Phủi
bụi chân ám chỉ một tập tục. Người Do thái từ một nước ngoại giáo trở
về hay từ một nơi chốn dơ bẩn mà đến, phải phủi bụi chân để khỏi pha trộn đất
bị bẩn và đất thánh thiện của xứ Giavê.
Hai câu hỏi được
đặt ra:
1) Tại sao Đức Giêsu sai nhóm
12 đi rao giảng? Thưa
vì lý do sư phạm. Đức Giêsu muốn giáo dục các mônd đệ. Và sự giáo dục bao hàm
một phần thực tập. Các môn đệ đã nghe Đức Giêsu rao giảng. Nhưng người ta chỉ
học tốt điều người ta kinh nghiệm, điều người ta thực hành. Sai họ đi rao
giảng, Đức Giêsu muốn cho các môn đệ có được hai kinh nghiệm: Kinh nghiệm sống
sự sám hối mà họ rao giảng và kinh nghiệm cảm thấy sự bất túc của con người và
vì thế cần phải cầu xin Chúa trong khi chu toàn sứ vụ tông đồ của mình.
Đức Giêsu cũng muốn
huấn luyện nhóm 12 về điểm bất vụ lợi tuyệt đối, thật cần thiết cho việc tông
đồ đích thật. Cho nên Ngài đòi hỏi phải từ bỏ tất cả những gì không cần thiết
cho đời sống. Nhất là Ngài muốn cho họ được cái kinh nghiệm này là: sự từ bỏ
chắc chắn sẽ lôi kéo sự quan phòng của Chúa Cha. Con người tự hạn chế về của
cải vật chất vì tình yêu đối với TC và để sẵn sàng phục vụ ơn cứu rỗi sẽ không
thiếu điều cần thiết.
2) Đức Giêsu gọi 12 tông đồ và
sai từng hai người đi, Người ban cho các ông có quyền... Ngay từ lúc đầu trong đời sống CHUNG với
Đức Giêsu, các tông đồ kinh nghiệm rằng Thầy họ sai họ đi. Sứ vụ tông đồ tương
lai của họ có được tính cách xác thực cũng là nhờ một nguồn gốc: được Đức GIêsu
sai đi rao giảng. Ngày ngay chúng ta nói: Giáo hội là Tông truyền. Điều này có
hai nghĩa: trước nhất là xuyên qua các Giám mục, Giáo Hội lên đến các Tông đồ,
kế tiếp là các Tông đồ được chính Chúa Kitô sai đi và ban quyền hành. Chúng ta
có thể rút ra một hệ luận. Nếu ai muốn đến và nhân danh Phúc âm mà nói với
chúng ta, chúng ta hãy xem họ có ở trong hàng ngũ tông truyền không, nghĩa là họ
có được sự ủy quyền của các người kế vị các Tông đồ, các Giám mục cùng với Đức
Thánh Cha ở đàng đầu không. Đây thật là một điều kiện tối cần thiết để bảo đảm
rằng qua lời nói và việc làm của họ, họ có được ơn huệ của Đức Kitô không.
7.
Loan báo Tin Mừng.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam ghi lại tên
tuổi hai vị giáo sĩ truyền giáo nổi tiếng: Đức Cha Lambert de la Motte và Đức
Cha Francois Pallu. Vào thế kỷ 17, Toà Thánh đã đặt hai giám mục này làm Giám
Quản Tông Toà đầu tiên ở Việt Nam: Đức Cha Lambert de la Motte phụ trách Đàng
Trong (từ sông Gianh trở vào Nam) kiêm Camquchia, Lào, Thái Lan. Đức Cha
Francois Pallu phụ trách Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra Bắc) kiêm Trung Quốc.
Đức Cha Francois Pallu là người pháp, từ bỏ
gia đình và quê hương vào ngày 3.1.1662, ngài dùng tàu buồm vượt qua Địa Trung
Hải rồi men theo đường bộ một thời gian lâu dài, qua hết các nước Trung Đông,
Vịnh Ba Tư, Ấn Độ mới đến Thái Lan. Năm 1670, trên đường đến miền Bắc Việt Nam,
lúc đi ngang qua Huế, thuyền của ngài bị một cơn bão đánh giạt vào Philippin.
Ngài bị người Tây Ban Nha bắt bỏ tù rồi đem giải về Tây Ban Nha.Với sự can
thiệp của Toà Thánh, Tây Ban Nha trả tự do cho Đức Cha. Tuy phải trải qua nhiều
gian khổ, nhưng tim ngài vẫn luôn sáng chói một niềm hy vọng. Ngài nói: “Tôi
phải đem Tin Mừng đến tận Trung Quốc”. Vừa được trả tự do, ngài tìm mọi cách
đến Bắc Kinh, và cuối cùng thân xác ngài được chôn vùi tại đây theo như ngài mơ
ước. một câu nói của ngài đáng cho chúng ta ghi nhớ: “Tôi tự cho mình hạnh phúc
nếu có thể đem xương cốt mình bắc một nhịp cầu tới Bắc Việt và tới Trung
Quốc!”.
Thưa anh chị em,
cuộc đời truyền giáo của Đức Cha Francois Pallu tại đất nước ta cũng như biết
bao nhà truyền giáo khác trên thế giới gắn liền với đời tông đồ và cái chết tử
đạo của mười hai Tông Đồ. Chính Chúa Giêsu tuyển chọn Nhóm Mười Hai để nhóm này
ở lại bên Ngài và để được huấn luyện. Mục tiêu của huấn luyện là để các ông trở
nên những người được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Ngay
từ khi còn ở trần gian, Chúa Giêsu đã thấy mình đứng trước một cánh đồng mênh
mông, có biết bao nhiêu người cần được nghe Tin Mừng cứu độ. Ngài thấy mình cần
những cộng tác viên nhiệt thành cho công cuộc truyền bá Tin Mừng. Chúa Giêsu đã
trao tất cả những gì mình có cho Nhóm Mười Hai: quyền rao giảng, chữa bệnh, trừ
quỷ. Hoạt động của các ông là một sự nối dài và mở rộng sứ vụ của mình Chúa
Giêsu.
Chia tay Thầy
Giêsu, Nhóm Mười Hai lên đường. Đâu là hành trang của người tông đồ? Chúa Giêsu
trả lời: “Không được mang gì khi đi đường”. Không bánh trái, không bao bì,
không tiền bạc, không mặc hai áo. Như thế, các ông lên đường với tất cả sự nhẹ
nhàng. Càng nhẹ nhàng thì càng dễ thi hành sứ mạng và càng được tự do hơn. Tuy
nhiên sự nhẹ nhàng này thật là một thách đố. Khi người tông đồ phải lên đường
với hai bàn tay trắng, không có lộ phí, không có lương thực dự trữ, lúc đó họ
phải hoàn toàn lệ thuộc vào lòng nhân hậu của Thiên Chúa và lòng tốt của tha
nhân. Ra đi tay trắng như thế là chấp nhận mọi bất trắc có thể xẩy ra dọc
đường, nhưng cũng là đặt mình thường xuyên dưới sự quan phòng của Chúa. Chính
Chúa lo mọi sự cho tôi, để tôi chuyên tâm lo việc của Chúa. Sự an toàn của tôi
không dựa vào những phương tiện trần thế, nhưng vào chính Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cũng dạy
cho các ông biết thái độ phải có khi đến với dân chúng. Nếu được đón tiếp thì
hãy ở lại, không tìm một nhà khác tiện nghi hơn. Người tông đồ cần có đời sống
nghèo, đón nhận những gì được trao cho mình với lòng biết ơn. Nếu không được
đón tiếp thì cũng không nên nản lòng. Cử chỉ giũ chân ra đi cho thấy người tông
đồ chẳng hề muốn lấy đi điều gì ở nơi đã từ chối đón tiếp mình.
Anh chị em thân
mến, hôm nay, Chúa Giêsu Phục Sinh cũng sai chúng ta đến với thế giới. Thế giới
không phải là chuyện xa xôi. Thế giới là nơi chúng ta đang sống, đang làm việc.
Thế giới là gia đình, bạn bè, là trường học, cơ quan, xí nghiệp. Thế giới là
nơi giải trí, nơi du lịch, bãi biển. Thế giới là sách báo, phim ảnh, video,
quảng cáo. Thế giới là mọi ngành khoa học, nghệ thuật, văn chương. Chúng ta ở
trong thế giới và Chúa muốn sai chúng ta đi vào thế giới của mình trong tư cách
là người Kitô hữu. Kitô hữu là người có khả năng biến đổi thế giới mình đang
sống để nó biến thành thế giới của Thiên Chúa. Các Tông Đồ đã rao giảng, đã mời
gọi con người hoán cải để đón nhận Nước Thiên Chúa gần bên. Chúng ta cả những
gì phá huỷ phẩm giá con người, loại trừ sự sống của Thiên Chúa, đều phải bị
loại trừ. Kitô hữu là người phải hoán cải trước khi mời gọi người khác hoán
cải, phải tỉnh thức trước khi đánh thức người khác, phải thuộc về Chúa trước
khi trừ quỷ.
Thế giới hôm nay
cũng là một thế giới bị thương tích, cần được chữa lành. Bệnh tật của thân xác
và bệnh tật của tinh thần vẫn hoành hành trên thế giới. Con người đau khổ vì
mất lòng tin, lo âu, tuyệt vọng. Con người nô lệ cho chính những sản phẩm của
mình. Tiến bộ khoa học kỹ thuật lại đặt ra những vấn đề mới mà tự sức con người
không giải quyết được. Kitô hữu là người tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, băng
bó vết thương của thế giới bằng sự hiện diện đầy yêu thương.
Chúng ta không rõ
nếu hôm nay Chúa Phục Sinh chỉ thị cho chúng ta, thì Ngài sẽ nói gì trước khi
ngài sai chúng ta ra đi. Chắc Ngài sẽ nói khác với đoạn Tin Mừng hôm nay, những
ý chính vẫn không thay đổi. Ngài dạy chúng ta tin cậy và quyền năng của Thánh
Linh hơn là vào khả năng và phương tiện tự nhiên của mình. Ngài nhắc nhở chúng
ta tín thác và Cha trên trời và Chuyển cầu cầu nguyện, vì chẳng ai có thể rao
giảng Tin Mừng nếu không có tình bạn thân thết với Chúa.
Mỗi Thánh Lễ Chúa
Giêsu tập họp chúng ta lại thành một cộng đoàn môn đệ của Ngài, để rồi sai
chúng ta ra đi loan truyền Tin Mừng Phục Sinh của Ngài cho mọi người ở mọi nơi.
Tin Mừng này chỉ có thể được công bố bằng cuộc sống làm chứng của mỗi người
chúng ta và của Giáo Hội, một cuộc sống trung thành với Chúa Giêsu nghèo khó và
chịu đóng đinh thập giá. Đó là bằng chứng đáng tin của tình thương cứu độ mọi
người.
8.
Gỡ bỏ hành trang - Gm. Arthur Tone.
Ulysses Grant là tổng tư lệnh liên quân
trong trận nội chiến, và sau này là Tổng thống Hoa Kỳ trong hai nhiệm kỳ. Ông
K.B.Washburn, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, làm chứng về lối sống đơn giản của ông
Grant như sau:
“Khi ông Grant rời tổng hành dinh, mở một
chiến dịch quyết định, ông không đem theo hành trang như thói quen các binh sĩ.
Tất cả lệ thuộc vào phản ứng mau lẹ, điều quan trọng là ông không bị cản trở
bởi hành trang. Ông không đem theo tùy viên, không ngựa hay tôi tớ, không đem
theo áo khoác và ngay cả một chiếc sơ mi. Trọn hành trang của ông trong 6 ngày
–tôi có mặt lúc đó- là chiếc bàn chải đánh răng. Ông ăn uống như một người lính
trơn, ngủ giữa màn trời chiếu đất”.
Tướng Grant đi tay không. Đức Giêsu và các
Tông đồ cũng vậy. Chúng ta vừa đọc, Đức Giêsu đã sai phái những người lãnh đạo
của Ngài ra sao. Người nói với họ: “Không đem theo đồ ăn, không giỏ xách, không
tiền và không áo ngoài nữa”.
Chúng ta phải làm
gì? Bạn và tôi được gọi làm tông đồ để loan truyền sứ điệp của Đức Kitô bằng
lời nói và việc làm. Chúng ta có thể làm việc khá hơn nếu chúng ta không bị đè
nặng với những đồ đạc không cần thiết. Nó có thể làm mất thời giờ, mất sự chú ý
và mất cả tiền bạc nữa. Một số đồ dùng có thể cho chúng ta tiện nghi, dễ chịu
giúp chúng ta làm việc nhanh và hiệu nghiệm hơn. Tuy nhiên có nhiều cái không
cần thiết làm mất thời giờ, giảm thiểu cố gắng của tinh thần và lý trí. Phải
chăng tôi đề nghị chúng ta bắt chước Mahatma Gandi, hoặc thánh Phanxicô Essisiô
và sống như người hành khất nghèo hèn nhất sao? Không phải thế, nhưng tinh thần
của Đức Kitô là chúng ta được tự do khỏi những sự dư thừa không cần thiết, một
đống dư thừa đè nặng chúng ta cả thể xác lẫn tinh thần.
Tôi đề nghị chúng
ta đừng bắt chước cô nữ sinh trung học có 26 chiếc áo lót mà hầu hết cô không
bao giờ mặc tới hay như một bà Đại sứ bên Anh có hàng ngàn đôi giầy hoặc như
một ai đã gây ra nỗi 65 % đồ ăn đặt tại khách sạn phải bỏ đi.
Dĩ nhiên, làm việc
không có dụng cụ sẽ bị hạn chế. Bác thợ mộc cần cưa, ông bác sĩ cần một phòng
làm việc mắc tiền. Bà nội trợ cần dụng cụ trong bếp, ông luật sư cần 1 giá sách
luật. Nhưng tất cả chúng ta, kẻ nhiều người ít, có thể tìm ra cái không cần,
những cái làm cho chúng ta mất tự do suy nghĩ, nói năng và hành động.
Mới đây, có vài
người lối xóm phải chuyển đến một thành phố khác, họ tốn công gấp 5 lần để thu
góp, phân loại, đóng kiện và chuyên chở những cái không quan trọng –mà có người
gọi là đồ “ve chai lông vịt”- sánh với những cái chính yếu. Chúng ta thường
thấy như thế.
Chúng ta đang trên
hành trình về quê trời. Bớt hành trang chúng ta càng có thể tập trung vào điểm
chính yếu, càng có thời giờ cho vấn đề thiêng liêng. Đi tay không như Chúa
Giêsu và như những người theo Chúa lúc ban đầu.
Xin Chúa chúc lành
bạn.
9.
Chúa sai các tông đồ đi từng hai - Noel Quesson.
Gandhi là vị cứu tinh của Ấn Độ, ông rất cảm
phục Đức Kitô. Ông đọc Tin Mừng hằng ngày và lấy “bài giảng trên núi” của Chúa
làm phương châm hành động. Một hôm, muốn tìm hiểu cụ thể hơn về Giáo Hội, ông
đi tới một nhà thờ Công Giáo. Vừa tới cửa nhà thờ, một người chực việc tiến lại
bảo ông: “Nếu những người Công Giáo sống đúng theo Tin Mừng Đức Kitô thì dân
tộc của tôi bớt khổ”. Ông
Gandhi mới có ý nghĩ đó. Nhiều người chúng ta cũng lấy làm tiếc vì không được
chính Chúa Giêsu đích thân điều hành sinh hoạt Giáo Hội. Và thấy rằng trong các
cộng đoàn nhỏ, có nhiều người ở cấp điều hành đã làm người ta hiểu sai về Tin
Mừng ở Đức Kitô. Nhưng biết làm sao được? Khi Chúa Giêsu nhập thể làm người,
Chúa phải chịu chi phối do không gian và thời gian. Muốn thiết lập một Giáo Hội
trường tồn trong lịch sử, Chúa phải trao Giáo Hội Chúa vào tay con người trần
thế. Ngay từ khi bắt đầu cuộc sống công khai, Chúa đã huấn luyện các môn đệ để
các ông tiếp tục sứ mệnh của Chúa. Cũng vậy, hôm nay đây, Chúa trao sứ mệnh
tiếp tục công việc Chúa làm nơi trần gian cho mỗi người chúng ta. Mọi Thánh Lễ
chúng ta tham dự, đều kết thúc bằng lệnh truyền sai đi: Thánh lễ đã xong, chúc
anh chị em ra đi bình an.
Theo lệnh Chúa, các
Tông đồ ra đi, làm những việc Chúa đã làm: xức dầu cho bệnh nhân, chữa họ lành,
rao giảng Tin Mừng, thúc giục người ta cải thiện đời sống. Nhân danh Chúa, các
ông làm được nhiều việc lạ, đã trừ quỉ.
Chúa sai các ông đi
từng hai người, như vậy, Chúa đã thiết lập những cộng đoàn nhỏ. Các ông là
những chứng nhân, và chứng nhân càng nhiều thì càng có giá trị. Một cộng đoàn,
bao giờ cũng có lợi hơn là một người đơn độc. Trong cộng đoàn người ta nhắc nhở
nhau, nâng đỡ nhau sống trung thành với luật Chúa, nhất là việc làm chứng tình
thương của Chúa ngay trong cộng đoàn. Chúa đòi hỏi các Tông đồ phải nhất thiết
trở nên mẫu mực về tình bác ái huynh đệ. Và làm sao thực thi bác ái được, nếu
mỗi người chỉ sống một mình. Dân chúng thời các tông đồ đã nhận ra dấu chứng
này nơi cộng đoàn tín hữu đầu tiên: “Coi kìa, họ yêu thương nhau biết bao!”. Và
đó cũng là định hướng của chính Đức Kitô: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các
con là môn đệ Thầy, là thấy các con yêu thương nhau”. Cuộc sống yêu thương
trong cộng đoàn vừa là dấu hiệu của người môn đệ Chúa, vừa là lời rao giảng
sống động, hùng hồn nhất về Tin Mừng của Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con biết dùng cuộc sống yêu thương để làm chứng cho Tin Mừng ngay trong
cộng đoàn và trong môi trường sống của chúng con.
10.
Ngài gọi và sai đi.
(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu là người
làm nên Nhóm Mười Hai. Sau một thời gian ở với Ngài (x. Mc 3,14), họ đã được
Ngài sai đi rao giảng. Người được sai đi phải là người có đời sống gần gũi
thiết thân với Chúa.
Đức Giêsu sai họ
lên đường. Ngài trao cho các ông những quyền năng Ngài có: quyền rao giảng,
quyền chữa bệnh, quyền trừ quỷ. Đó là hành trang lên đường của các ông. Mọi
hành trang khác chỉ là phụ thuộc: một chiếc áo đang mặc, một cây gậy và đôi dép
khi đi đường.
Đức Giêsu cấm các
ông không được mang theo lương thực, bao bị, tiền bạc... Không lương thực đi
đường nên có thể bị đói. Không bao bị nên không thể để dành. Không tiền bạc nên
không thể mua sắm. Ngài muốn các ông hoàn toàn nương tựa vào lòng tốt của Thiên
Chúa và của con người.
Ra đi mà không có
một chút bảo đảm. Các môn đệ đã đi từ nơi nọ đến nơi kia, lê gót qua các làng
mạc và thành phố. Họ không đóng đô ở một nơi, dù gặp thành công, vì họ nhớ lời
của Thầy: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy
còn rao giảng ở đó nữa" (x. Mc 1,38)
Tính cơ động là đặc
tính thiết yếu của người tông đồ. Sẵn sàng đến và cũng sẵn sàng đi.
Các môn đệ loan báo
về Nước Thiên Chúa đang đến. Đó là một tin vui, nhưng đòi con người hoán cải.
Hoán cải là điều
chẳng ai ưa. Người tông đồ cần can đảm nói điều phải nói. Không làm nhẹ đi
những đòi buộc của Tin Mừng, không bóp méo Tin Mừng để tìm thành công cá nhân,
cũng không mỵ dân để vuốt ve dư luận. Người tông đồ phải chấp nhận được tiếp
đón một cách nồng hậu hay lạnh nhạt.
Họ chỉ là những
người phục vụ cho Tin Mừng.
Chúng ta cần cảm
nghiệm niềm vui của các môn đệ. Những người đánh cá nay trở thành nhà rao
giảng. Những người ít học, bình dân, nay trừ quỷ và chữa bệnh. Họ đem đến cho
con người niềm vui, sự giải phóng toàn vẹn cả hồn lẫn xác.
Hôm nay Đức Giêsu
vẫn sai ta đến trong thế giới. Đi từng hai người hay từng nhóm để nâng đỡ nhau.
Chúng ta có thể mang theo nhiều đồ trang bị hơn xưa, nhưng không vì thế mà bỏ
rơi cậy dựa vào Chúa. Thế giới hôm nay vẫn có nhiều bệnh tật: bệnh tuyệt vọng
chán chường, bệnh hoài nghi khép kín... Ước gì chúng ta chữa lành những nỗi đau
hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Lên đường
là ra đi, nhưng cũng là ở lại môi trường mình đang sống. Bạn thấy làm chứng cho
Chúa tại nơi bạn học hành, làm việc, có khó không? Đâu là những cản trở?
·
Thế
giới hôm nay là thế giới bị nô lệ dưới nhiều hình thức. Bạn thấy được những
hình thức nào? (nô lệ cho vật chất, tiện nghi, chức vị, xác thịt...)
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin sai chúng con
lên đường; nhẹ nhàng và thanh thoát, không chút cậy dựa vào khả năng bản thân
hay vào những phương tiện trần thế.
Xin cho chúng con
làm được những gì Chúa đã làm: rao giảng Tin Mừng, trừ quỷ, chữa lành những
người ốm đau.
Xin cho chúng con
biết chia sẻ Tin Mừng với niềm vui của người tìm được viên ngọc quý, biết nói
về Ngài như nói về một người bạn thân.
Xin ban cho chúng
con khả năng đẩy lui bóng tối của sự dữ, bất công và sa đọa.
Xin giúp chúng con
lau khô những giọt lệ của bao người đau khổ thể xác tinh thần.
Lạy Chúa Giêsu, thế
giới thật bao la mà vòng tay chúng con quá nhỏ. Xin dạy chúng con biết nắm lấy
tay nhau mà tin tưởng lên đường, nhẹ nhàng và thanh thoát.
11.
Lên đường thi hành sứ vụ với Chúa Giêsu.
(Suy niệm của Lm. Ignatio
Trần Ngà)
Mười hai môn đệ lên
đường theo lệnh Chúa Giê-su mà chẳng mang theo gì cả: không lương thực, không
tiền bạc, không mang thêm chiếc áo thứ hai, không bao bị, ngoại trừ hai vật
dụng tối cần là cây gậy và đôi dép (Mc 6, 8-9). Ngoài ra, các môn đệ lại là
những người ít học, khả năng khiêm tốn...
Vậy mà các ngài đã
đạt được những thành quả tuyệt vời: Xua trừ nhiều ma quỷ, chữa lành nhiều bệnh
nhân, kêu gọi người ta ăn năn sám hối! (Mc 6,13).
Nhờ đâu các ngài
đạt được những thành quả phi thường nầy?
Tất cả là do quyền năng Thiên
Chúa.
Khi sai các môn đệ
lên đường không chút hành trang, Chúa Giê-su muốn tỏ cho thấy sự thành công
trong hoạt động tông đồ không do tài lực của con người nhưng là do quyền năng
Thiên Chúa. Chính Chúa Giê-su hoạt động qua các vị như đôi bàn tay của Người.
Chúng ta là chi thể của Chúa Giê-su
Từ ngày lãnh bí
tích rửa tội, chúng ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa Giê-su như cành liền
cây, như bàn tay nối liền cơ thể và từ đó, chúng ta được thông dự vào sứ mạng
ngôn sứ, tư tế và vương đế của Chúa Giê-su.
Từ đó, Chúa Giê-su
muốn rao giảng qua chúng ta là môi miệng của Người; Chúa Giê-su muốn chăm sóc
bệnh nhân và người đau khổ qua chúng ta là đôi tay của Người; Chúa Giê-su muốn
tỏ lòng thương xót nhân loại qua chúng ta là trái tim của Người.
Thế nên, chúng ta
phải cùng hoạt động với Chúa Giê-su và để Người sử dụng chúng ta như chi thể
của Người mà tiếp nối sứ mạng loan Tin Mừng và đem ơn cứu độ cho thế giới.
Chúng ta không thể
viện cớ mình nghèo nàn, ít học, yếu đuối để từ khước sứ mạng Chúa giao, vì mười
hai môn đệ đầu tiên được Chúa sai đi cũng không có nhiều khả năng, nhiều điều
kiện hơn chúng ta hôm nay. Các vị lên đường theo lệnh Chúa Giê-su dù không mang
lương thực, không tiền bạc, không bao bị, không cả chiếc áo thứ hai mà vẫn đạt
được thành quả tốt đẹp khác thường. Chúng ta cũng có thể đạt được hiệu quả như
thế nếu chúng ta hiến mình cho Chúa Giê-su sử dụng.
Đừng trở nên bàn tay tê bại
Nhân loại hôm nay
đông đảo gấp hàng triệu lần so với thời các môn đệ đầu tiên nên nhu cầu loan
báo Tin Mừng lúc nầy càng cấp bách và khẩn thiết hơn bao giờ hết. Hôm nay Chúa
Giê-su vẫn liên lỉ kêu mời mỗi người chúng ta tham gia sứ vụ loan Tin Mừng như
các môn đệ xưa.
Là chi thể của Chúa
Giê-su, chúng ta không thể từ chối tham gia vào công việc cứu độ của Người.
Một chi thể không
cùng các chi thể khác tham gia vào các hoạt động của thân mình là một chi thể
tê bại hoặc là một chi thể thừa (như ngón thứ sáu -ngón tay thừa- trên một bàn
tay).
Một chi thể tê bại
(hoặc thừa) chẳng những không mang lợi ích gì cho thân mình mà còn trở nên
chướng ngại cho hoạt động của toàn thân.
Chắc chắn không ai
trong chúng ta muốn làm một chi thể tê bại trong Thân Mình Chúa.
Vậy thì hãy sẵn
sàng hiến thân làm khí cụ cho Chúa Ki-tô.
Khi chúng ta hiến
đời mình để Chúa Giê-su sử dụng như bàn tay của Người, chắc chắn nhiều điều kỳ
diệu sẽ được Người thực hiện qua con người mỏng giòn yếu đuối của chúng ta.
12.
Chân dung của Sứ giả Tin Mừng.
(Suy niệm của Lm Jos. Tạ
Duy Tuyền)
Một cuộc đời đẹp là
một cuộc đời dấn thân vì lợi ích cho tha nhân. Một tâm hồn thanh cao là tâm hồn
luôn thanh thoát khỏi những bon chen vật chất, những vinh hoa phù phiếm mau
qua. Đó chính là mẫu người mà xã hội hôm qua cũng như hôm nay đang cần, rất cần
họ để điểm tô cho xã hội thêm phong phú nhờ những cống hiến vô vị lợi và đầy
lòng quảng đại của họ. Đó cũng chính là chân dung của các sứ giả Tin mừng. Họ
đã để lại cho nhân thế những bước chân thật thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng đầy
tình người. Họ là những người được tuyển chọn để cứu nhân độ thế. Họ dấn thân
vào đời để giải cứu thế gian khỏi ba thù hiểm độc. Thế gian có quá nhiều mưu mô
và xảo quyệt. Ma qủy có quá nhiều phương cách để cám dỗ. Họ cần phải ra đi với
đôi chân nhẹ nhàng và lòng thanh thoát. Họ không được mang bao bị, không mang
bạc tiền của nhân thế. Họ là những người chấp nhận cuộc sống nổi trôi "ba
chìm bảy nổi chín lênh đênh". Sứ mệnh của họ là đẩy lùi sự dữ và thi thố
tình thuơng. Họ không thể bận tâm đến của cải thế gian. Họ không để lòng mình
bị ràng buộc bởi nhu cầu vật chất và tiện nghi. Nếu họ quá quan tâm đến mình sẽ
quên đồng loại. Nếu họ quá chú trọng đến vật chất sẽ dẫn đến lo hưởng thụ và
tích góp cho bản thân. Thiện chí sẽ mất. Hướng đi sẽ chệch đường lạc lối. Lý
tưởng ban đầu sẽ bị đảo ngược. Thay vì cứu đời sẽ chỉ còn lại sự lợi dụng địa
vị chức quyền để vun quén cho bản thân.
Người ta kể rằng: có một đệ tử muốn từ bỏ
mọi sự của thế gian để sống tu trì. Anh quyết định vào rừng vắng sống ẩn tu.
Hành trang duy nhất anh mang là chiếc áo ăn mày để khất thực sống qua ngày. Ngày
kia, anh đau đớn vô cùng khi thấy chiếc áo phơi ở bờ sông đã bị chuột cắn nát
tả tơi. Không còn cách nào khác, anh phải vào trong làng xin một chiếc áo khác.
Chiếc áo thứ hai này cũng bị cùng chung số phận, nát tả tơi vì chuột cắn. Anh
nghĩ rằng chỉ có nuôi mèo mới giữ được chiếc áo. Anh quyết định nuôi mèo. Thế
nhưng, khi có mèo anh lại phải lo kiếm thêm phần ăn cho con mèo được nuôi để
đuổi chuột.
Ngày ngày vác bị đi khất thực, anh cảm thấy
mình như một gánh nặng đối với dân làng. Nghĩ thế, anh cố gắng chắt chiu để
kiếm tiền nuôi một con bò để thêm phần thu nhập. Nhưng có bò lại phải kiếm cỏ
cho bò ăn. Chăn nuôi gia súc khiến anh không thể có thời giờ cầu nguyện, tối
mặt vì công việc, anh lại phải thuê người cắt cỏ nuôi bò. Càng ngày bò càng
sinh sản, người cắt cỏ cũng phải gia tăng. Thời gian trôi qua, mảnh đất hoang
sơ đã biến thành một trang trại rộng lớn. Gia súc và người làm ngày càng thêm
đông. Con người đã một thời muốn từ bỏ mọi sự để trở thành một tu sĩ, nay
nghiễm nhiên trở thành một ông chủ trang trại.
Có tiền của và tài sản to lớn, anh lại muốn
có người chia sẻ công việc của mình. Anh cưới vợ và sinh con. Anh trở thành một
người chồng, người cha trong một gia đình hạnh phúc. Thế là lý tưởng ban đầu đã
hết. Anh đã đánh mất lý tưởng chỉ vì mải lo gìn giữ một cái áo rách. Chuyện có
vẻ hoang đường nhưng lại là thật. Ma qủy thường cám dỗ từng bước. Ma qủy thường
gợi lên những điều rất hấp dẫn để dẵn dắt con người đi theo chương trình của
nó. Adam - Evà đã nhìn thấy trái táo thơm ngon mà quên đi thân phận phải vâng
lời Thiên Chúa. Khi tỉnh lại chỉ còn thất vọng và hổ thẹn lương tâm. Người tu
sĩ đã lạc bước khi quá bận tâm đến nhu cầu vật chất, đến đồng tiền bát gạo,
khiến tâm hồn anh không còn thời giờ để vun đắp, định hướng cho hướng đi của
mình. Cái thất bại của anh thật tẻ nhạt, chỉ vì mải lo gìn giữ một chiếc áo
rách.
Thực vậy, vì tiền
bạc, mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.Vì tiền mà cái tính bổn thiện
của con người ban đầu đã không còn. Vì tiền mà người ta có thể chối bỏ niềm
tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào.
Đó là bài học cho
tất cả chúng ta. Đồng tiền thật cần thiết cho cuộc sống nhưng không phải là cứu
cánh cho cuộc đời. Đừng quá lệ thuộc vào của cải vật chất. Nó chính là con dao
hai lưỡi có thể làm hại cuộc đời chúng ta, nếu không khôn ngoan, sáng suốt để
nhận định đúng giá trị của nó. Chúng ta cần can đảm để trong khi mưu tìm của
cải vật chất, chúng ta cần có đủ nghị lực khước từ mọi hành vi bất chính, mọi
thoả hiệp với lừa đảo, gian trá của thế gian. Chúng ta không thể vì tiền mà
đánh mất tính người. Vì tiền mà đánh mất tình người. Vì tiền mà lòng mang dạ
sói để hại người, hại đời, để làm tôi cho ma quỷ sai khiến ra đi gieo vãi sự dữ
cho trần gian.
Con người luôn
hướng về sự thiện. Con người luôn mong muốn cống hiến cuộc đời mình cho tha
nhân. Đó chính là mục đích mà Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh
Chúa. Thế nhưng ma quỷ luôn vẽ lối chúng ta đi sai đường Chúa. Ước gì lời Chúa
hôm nay thức tỉnh chúng ta, hãy lo tìm kiếm những điều đẹp ý Chúa hơn là thế
gian. Hãy để tâm làm việc phụng sự Chúa hơn là làm tôi cho tiền bạc và tiện
nghi. Đừng để lòng mình lệ thuộc vào vật chất mà quên đi gía trị tinh thần. Xin
Chúa giúp chúng ta biết sống theo lời Chúa để được phúc lành mai sau. Vì
"Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ". Amen.
13.
Rao giảng.
Các con hãy đi rao giảng.
Đó là một mệnh lệnh
đòi chúng ta phải ra đi. Ra đi như các tông đồ, từ bỏ nghề nghiệp, từ bỏ quê
hương, từ bỏ những người thân yêu và ra đi như thế có nghĩa là hy sinh.
Ra đi như các tu
sĩ, từ bỏ gia đình, từ bỏ bè bạn. Và ra đi như thế cũng có nghĩa là hy sinh. Hễ
đã muốn hiến thân theo đuổi một sự nghiệp trong đạo, thì phải bằng cách này hay
cách khác, chấp nhận từ bỏ và hy sinh.
Nhưng từ bỏ những
cái bên ngoài mà thôi thì vẫn chưa phải là ra đi đích thực. Ra đi đích thực
chính là từ bỏ bản thân, từ bỏ những tập quán và những ý riêng tư để tin vào
giá trị vô song của nước trời, một vương quốc mà chúng ta phải hy sinh tất cả
để xây dựng. Chấp nhận ra đi, chúng ta sẽ rao giảng, sẽ nhắc lại lời Ngài đã
nói:
- Nước trời đã gần.
Đó là tất cả những
gì chúng ta phải rao truyền cho các tâm hồn.
Nhìn vào cuộc sống,
chúng ta thấy còn quá nhiều người chưa nhận biết nước Chúa. Ngày nay cũng chẳng
hơn gì ngày xưa, vì nhân loại luôn đợi chờ một cái gì khác nữa.
Vào thời Chúa
Giêsu, người ta mong đợi Thiên Chúa sẽ can thiệp, sẽ làm một phép lạ để đánh
đuổi binh đội Rôma, biến nước Israel thành một địa đàng mới, đầy đủ mọi vinh
quang. Ngày nay người ta cũng mơ ước như thế. Nhưng khốn nỗi là họ không mong
đợi ở Thiên Chúa mà lại mong đỡi ở tài năng con người như khoa học, kỹ thuật.
Họ tin tưởng ở quyền lực và tổ chức con người để rồi loại trừ Thiên Chúa. Dĩ
nhiên không phải là tất cả, vì còn có những người biết suy nghĩ cách sâu xa
hơn, để rồi nghiêng mình suy tôn Thiên Chúa…
Nhưng xét cho cùng,
vẫn còn biết bao nhiêu sự phủ nhận về nhiều phương diện, hoặc công khai ngoài
xã hội, hoặc âm thầm trong đời sống riêng tư.
Sở dĩ như vậy, vì
Chúa Giêsu đã rao giảng một nước trời hoàn toàn khác biệt với mộng ước của
người Do Thái, một vương quốc thiêng liêng được thiết lập trong tâm hồn người
đón nhận.
Chúng ta cũng phải
rao giảng như thế, mặc dù có trái với mộng ước của thời đại. Chúng ta phải chèo
ngược dòng nước đang cuốn trôi nhân loại.
Như các tông đồ,
chúng ta hãy nhắc lại lời Chúa:
- Nước trời đã gần, và đang ở trong tâm hồn
những người thiện chí.
Mọi Kitô hữu đều có
bổn phận rao giảng lời Chúa, nhưng rao giảng bằng cách nào?
Trước hết, rao giảng bằng lời
cầu nguyện.
Đây là cách rao
giảng tốt nhất mà mọi người đều có thể áp dụng. Thánh nữ Têrêxa với 24 tuổi đời
trong bốn bức tường tu viện, đã được Giáo hội đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo,
phải chăng là nhờ lời cầu nguyện của thánh nữ mà biết bao tâm hồn được ơn ăn
năn sám hối.
Tiếp đến là rao giảng bằng
gương sáng, bằng chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Các tu sĩ Phanxicô
đầu tiên đã áp dụng phương cách này. Họ rao giảng bằng cách sống Phúc âm, thực
hiện sự khó nghèo giữa một thế giới đang chạy theo giàu sang, kể cả những người
con của Chúa. Họ sống khó nghèo nhưng trên khuôn mặt luôn phản chiếu niềm vui
của thiên đàng, và đó là một bài giảng hùng hồn nhất. Bài giảng sẽ vô ích nếu
người giảng không sống lời mình giảng, Trái lại, khi đã sống một cách gương mẫu
thì bài giảng hoàn tất. Một khi đã sống thánh thiện và làm gương cho người
khác, chúng ta có thể rao giảng bằng lời nói, đó là cách thức thứ ba.
Nói càng ít càng
tốt, nhưng phải nói những lời xuất phát từ một tâm hồn thánh thiện, những lời
được Chúa soi sáng, vì như lời thánh Phaolô: Muốn tin thì phải được nghe biết,
muốn nghe biết thì phải có người nói tới. Chúng ta cũng đừng quên rằng đời sống
càng thánh thiện thì lời giảng càng hiệu lực.
Sau cùng, rao giảng bằng cách
làm tròn bổn phận.
Thực vậy, địa vị
nào cũng có thể là một bài giảng sống động, bổn phận nào cũng có thể là một lời
kinh, nếu chúng ta biết thánh hóa, hoàn cảnh nào cũng có thể giúp chúng ta nên
chứng tá cho Chúa ngay giữa lòng cuộc đời của mình.
14.
Chúa Kitô.
Chúa Giêsu mở rộng
hoạt động của Người bằng cách sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng. “Nhóm
Mười Hai” là một nhóm nhỏ các môn đệ, còn được gọi là các tông đồ. Chúa Giêsu
đã tuyển chọn để sai đi rao giảng. Họ loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu và thúc
giục người ta hoán cải cuộc sống, để có thể đón nhận Nước Thiên Chúa đang đến
qua con người của Chúa Giêsu.
Qua trình thuật của
Tin Mừng, chúng ta thoáng thấy những qui luật truyền giáo của Hội Thánh tiên
khởi. Hoạt động truyền giáo của Giáo hội được trình bày như là tiếp nối sứ vụ
mà Chúa Giêsu đã ủy thác cho các tông đồ. Các nhà thừa sai rao giảng bằng lời
nói và các hoạt động bác ái. Như vậy, Tin Mừng được chứng minh là công trình
của Thiên Chúa nhằm cứu độ những người có lòng tin.
Các giáo phụ luôn
luôn nhắc nhở các tín hữu như sau: “Chúa Kitô tiếp tục hoạt động trong các bí
tích. Khi vị linh mục làm phép Thánh Tẩy, đó là chính Chúa Kitô thanh tẩy chúng
ta. Khi Đức Giám mục ban phép Thêm sức, đó là chính Chúa Kitô tăng sức mạnh cho
chúng ta. Khi linh mục ban phép Giải tội, đó là chính Chúa Kitô tha tội cho
chúng ta. Các thừa tác viên là những người tiếp nối công trình của Chúa Kitô.
Công việc của các ngài là chính hoạt động cứu độ của Chúa Kitô”.
Những thành viên
của phong trào Cursillo đã vẽ một bức tranh Chúa Kitô không có tay chân. Mỗi
một thành viên của phong trào Cursillo được yêu cầu trở thành tay chân của Chúa
Kitô, tiếp tục công trình cứu độ của Chúa Kitô trong hiện tại. Nếu bức tranh đó
mô tả nhiệm vụ của các thành viên trong phong trào Cursillo, thì điều đó càng
đúng hơn cho các thừa tác viên trong Giáo hội. Họ tiếp tục công việc “rao giảng
lòng thống hối, từ bỏ tội lỗi, xức dầu cho các bệnh nhân và chữa lành cho nhiều
người”.
Trở thành một thừa
tác viên của Chúa Kitô là một ơn gọi cao quý, nhưng cũng là một ân huệ. Không
ai được tự cho mình có ơn gọi đó. Người ta phải cầu nguyện, suy nghĩ và chuẩn
bị chu đáo cho ơn gọi đó. Nhiều người được gọi nhưng ít kẻ được chọn. Người ta
phải sống gắn bó chặt chẽ với Chúa Kitô, theo sát Chúa Kitô và sống cho Người.
Bất cứ một do dự, một nghi ngờ nào về sự trung tín của Thiên Chúa cũng là một
sự phản bội. Nếu có một sự bất trung nào thì người ta sẽ thấy đó là do lỗi của
chính mình, bởi vì Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi những ai chân thành tìm kiếm
và bước theo Người.
Lạy Chúa, xin Chúa
cho các bậc làm cha mẹ biết quảng đại dâng hiến con mình trong cuộc sống tận
hiến cho việc phụng sự Chúa. Xin Chúa ban cho chúng con những linh mục thánh
thiện như lòng Chúa mong ước.
15.
Rao giảng.
Tất cả những người
đi tu, nhất là để làm linh mục, thường được kêu gọi hai lần: lần thứ nhất, Chúa
kêu gọi âm thầm trong lòng mỗi người bằng những ước muốn, yêu thích và qua
những biến cố do Chúa quan phòng xếp đặt để hướng dẫn đương sự tới nơi tu trì
hay tới bàn thờ. Lần thứ hai, Chúa kêu gọi qua sự tuyển chọn và kêu gọi của bề
trên hay Đức Giám mục.
Chúa Giêsu cũng đã
hành động như thế trong việc kêu gọi các tông đồ, các môn đệ đầu tiên của Ngài.
Chúa kêu gọi họ ngay khi bắt đầu sứ vụ công khai truyền giảng Tin Mừng. Ngài đã
kêu gọi từng người một trong nhiều hoàn cảnh khác nhau: người thì đang vá lưới,
kẻ gặp ở giữa đường, người khác đang ngồi thu thuế… Rồi Ngài qui tụ họ lại cho
ở luôn bên cạnh Ngài, huấn luyện, dạy dỗ, cho chứng kiến những phép lạ, các
công việc Ngài làm, nghe Ngài giảng dạy dân chúng, thấy gương sáng của Ngài.
Giờ đây, muốn sai họ đi truyền giảng Tin Mừng, Ngài lại chính thức gọi họ một
lần nữa như bài Tin Mừng kể lại. Sở dĩ Chúa làm như vậy là để cho họ thấy rằng:
việc trở thành tông đồ, và linh mục hay cả tu sĩ ngày nay, không phải là sáng
kiến của cá nhân họ, nhưng là ơn thiên triệu Chúa ban, là một thứ đoàn sủng.
Trước khi sai các
tông đồ đi truyền giảng, Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Những điều
này được coi là khuôn mẫu, là bộ luật chỉ đạo cho các chiến sĩ truyền giáo.
Chúng ta thấy Chúa không bảo họ phải giảng gì và giảng như thế nào, nhưng phải
ăn mặc thế nào, mang những gì, sinh sống đối xử làm sao với những người mà họ
tiếp xúc, đồng thời dùng quyền năng Chúa ban mà trừ quỷ và chữa bệnh.
Có thể nói: Chúa
không dạy các ông phải rao giảng bằng những bài giảng thuyết tràng giang đại
hải hay bằng những lý luận đanh thép, khôn ngoan, thông thái nhằm thuyết phục
mọi người, nhưng Chúa bảo các ông phải giảng bằng chứng tích, tức là bằng chính đời
sống của họ. Còn những điều các ông phải nói, phải giảng, tóm lại vỏn
vẹn có hai hay ba điều: chúc bình an – báo tin Nước Trời đã đến hay đã gần – và
thúc giục người ta ăn năn hối cải. Nghĩa là Chúa muốn các môn đệ của Chúa nói
ít và làm nhiều, dĩ nhiên Chúa không cấm họ kể lại cho mọi người tất cả những
giáo huấn mà họ đã được nghe.
Đối với chúng ta
hôm nay, Chúa cũng kêu gọi và sai chúng ta đi truyền giảng Nước Thiên Chúa. Bởi
vì mỗi người chúng ta khi đã lãnh bí tích Rửa tội và Thêm sức, chúng ta đều
được kêu gọi và sai đi rao giảng: Có người bằng lời nói, nhưng tất cả đều bằng
việc làm, tức là bằng đời sống, bằng hành động gương mẫu tốt lành. Nghĩa là tất
cả chúng ta đều phải là chứng nhân của Chúa và của Nước Trời, không ai được
chuẩn chước, cho dù là một bệnh nhân bất toại nằm trên giường cũng thế.
Rao giảng bằng lời
nói của các chiến sĩ Phúc âm, của các vị thừa sai, của các linh mục… cũng rất
cần thiết, nhưng với điều kiện là phải đi đôi với bằng chứng đời sống của chính
các ngài, nếu không lời nói của các ngài chỉ là tiếng thanh la não bạt rộn
ràng. Ngược lại, việc rao giảng bằng đời sống, tự nó có năng lực thuyết phục
người ta chấp nhận chân lý mà không cần lời nói, tuy rằng lời giảng vẫn có thể
bổ túc một cách hữu hiệu. Chúng ta vẫn nói hay nghe người khác nói: “Lời nói
lung lay, gương bày lôi kéo”, lời nói mới chỉ làm lung lay lòng người, nhưng
đời sống sẽ lôi kéo người ấy về hẳn phía mình.
Mỗi Kitô hữu, mỗi
người Công giáo là một chứng nhân cho Chúa, cho đạo. Nếu chúng ta thiếu đời
sống tốt lành, thiếu đời sống gương mẫu là chúng ta đã bỏ mất ơn thiên triệu
làm chứng nhân và không thi hành đầy đủ sứ mệnh tông đồ của mình. Như vậy, cách
rao giảng, cách làm chứng cho Chúa, cho đạo tốt nhất, hữu hiệu nhất là đời sống
tốt đẹp của chúng ta. Nghĩa là làm bất cứ việc gì, ở đâu, với ai, chúng ta hãy
để ý đối xử với họ thế nào để gây được thiện cảm cho đạo, dù đó chỉ là những cử
chỉ nhỏ nhặt hay những câu nói buông trôi giữa trời, bởi vì chính những cử chỉ
không tên tuổi, những câu nói giữa trời, những thái độ dường như vô tình ấy
cũng rất có ảnh hưởng và có khi còn ảnh hưởng sâu xa nữa.
Phương ngôn Ả Rập
có câu: “Nếu anh không làm được ngôi sao trên trời, anh hãy làm cái đèn trong
nhà anh”. Nếu đa số chúng ta không có điều kiện để đi đây đó làm tông
đồ, thì tất cả chúng ta đều có thể làm tông đồ bằng gương sáng. Làm gương sáng
là một nhiệm vụ chính Chúa Giêsu đã truyền dạy: “Các con là cái đèn sáng, sự
sáng của các con phải tỏa chiếu trước người ta, để người ta thấy công việc của
các con mà ngợi khen Cha trên trời”. Chúng ta làm tông đồ bằng cách gây ảnh
hưởng tốt và gây ảnh hưởng bằng ngôn ngữ, cử chỉ, thái độ… Vậy nếu một lời nói,
một cử chỉ, một thái độ có thể ảnh hưởng đến người khác, thì phương chi một
hành động, một công việc và nhất là một nếp sống. Làm gương sáng bằng hành động
của chúng ta có sức lôi cuốn hơn những lời nói hoặc những bài giảng hay.
Gương sáng cụ thể
nhất là những việc làm thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Có một người đàn bà kia đã khuyên đứa con
cưng của bà như sau: “Con ơi, ngày con mới sinh, đôi mắt con vừa nhìn thấy ánh
sáng, mọi người đều mỉm cười với con, mà con lại khóc. Con hãy sống thế nào để
một ngày kia, đến giờ sau hết, mọi người đều tràn lệ mà con lại mỉm cười”.
Sống thế nào để được như thế? Chỉ có một cách duy nhất là gieo vào tâm hồn
những người chung quanh một tình thương mến, để đến giờ cuối đó họ phải khóc vì
thương tiếc, và chúng ta mỉm cười vì đã thực thi được tình người, muốn như vậy
cần phải biết yêu thương và thể hiện tình yêu thương.
Xin Chúa cho chúng
ta luôn ý thức nhiệm vụ tông đồ và cố gắng thực hiện bằng cách làm gương sáng
và thể hiện tình yêu thương để danh Chúa được rạng sáng và nước Chúa được mở
rộng.
16.
Hoạt động tông đồ.
Rất nhiều lần trong
Phúc âm, Chúa Giêsu đã than thở, đã tâm sự với các môn đệ:
- Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít…Ta
mang lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Vì thế, nỗi lo lắng
số một trong cuộc đời Chúa, đó là huấn luyện các tông đồ, để các ông tiếp nối
sứ mạng của Ngài.
Chính Ngài đã tuyển
chọn các ông, cắt nghĩa cho các ông được hiểu về giáo lý Tin Mừng, trao ban
quyền hành và sai các ông đi truyền giáo. Phần các tông đồ, các ông cũng đã
hăng say đáp trả lời mời gọi của Chúa.
Còn chúng ta thì
sao?
Với Bí tích Rửa
tội, Chúa cũng đã kêu gọi chúng ta trở nên những tông đồ. Với Bí tích Thêm sức,
Chúa cũng đã sai chúng ta đi vào cuộc đời để làm chứng cho Ngài. Thế nhưng,
chúng ta đã làm được những gì, cho danh Chúa được cả sáng, và nước Chúa được
trị đến?
Nhiều người trong
chúng ta đã phủi tay trước nhiệm vụ khẩn thiết ấy. Họ cho rằng: Hoạt động tông
đồ truyền giáo chỉ là một bổn phận dành riêng cho linh mục và tu sĩ. Còn họ,
đang phải vật lộn giữa dòng đời, thì còn hơi sức đâu mà nghĩ tới. Vậy họ đã đưa
ra những lý do nào để biện minh cho thái độ của mình.
Lý do thứ nhất như vừa trình bày, họ cho rằng hoạt động
tông đồ và truyền giáo không phải là bổn phận của họ. Nghĩ như vậy là lầm, bởi
vì một khi đã là chi thể của Hội thánh, chúng ta phải liên đới chịu trách nhiệm
về sự sống còn và phát triển của Hội thánh.
Chính vì thế, Đức
Thánh Cha Piô XII đã kêu gọi:
- Hãy liên kết với nhau để xây dựng lại thế
giới.
Hơn thế nữa, Kinh
thánh đã bảo chúng ta:
- Đức tin không có việc làm thì chỉ là một
đức tin đã chết.
Bằng hoạt động,
bằng việc làm, chúng ta sẽ biểu lộ được sức sống của niềm tin.
Lý do thứ hai họ đưa ra, đó là tôi không có thời giờ và
tiền bạc. Chúng ta nói rằng, chúng ta yêu mến Chúa hết lòng, nhưng thử hỏi
chúng ta đã dành cho Chúa những gì?
Nếu so sánh chúng
ta với một đảng viên, một cán bộ, chúng ta sẽ thấy mình thua xa. Trong một tuần
lễ mà thôi, một đảng viên, một cán bộ đã bỏ ra bao nhiêu thời giờ để hội họp,
để thảo luận, để đi đây đi đó mà phổ biến chính sách đường lối, còn chúng ta
thì sao? Đừng hỏi rằng Chúa đã làm gì cho tôi, mà hãy tự kiểm điểm xem tôi đã
làm được những gì cho Chúa.
Lý do thứ ba họ nghĩ rằng: mình không có khả năng.
Thực vậy, tôi vừa
quê mùa, lại vừa dốt nát, làm sao có thể đối đầu với những người học rộng biết
nhiều và trí thức?
Đọc lại Phúc âm
chúng ta thấy các tông đồ là ai? Tôi xin thưa:
- Họ là những ngư phủ đơn sơ và chất phác,
học thì ít mà thiện chí thì nhiều.
Chính thiện chí mới
là điều cần thiết, như là một câu danh ngôn đã bảo:
- Người ta làm được nhiều điều tốt đẹp với
một trái tim hơn là với một cái đầu.
Ngoài ra, làm việc
tông đồ đâu có phải chỉ là giảng giải, tranh biện hơn thua mà còn bằng lời cầu
nguyện, còn bằng đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của mình
nữa.
Trong bàn tay của
Chúa, một dụng cụ tầm thường nhất cũng có thể tạo được những thành công rực rỡ.
Ngày nay chúng ta
thường kêu ca:
- Đạo đức thì suy đồi, luân thường thì đảo
lộn, con người như đã đánh
mất niềm tin vào những giá trị thiêng liêng.
Nhưng thử hỏi:
- Chúng ta làm được những gì để cải tạo xã
hội, hay là chúng ta cho
rằng mình chỉ là một cánh én, làm sao tạo dựng nổi một mùa xuân?
Chúng ta lớn tiếng
phê bình chỉ trích, nhưng lại không góp được một phần nhỏ bé vào công cuộc
truyền giáo, đem ánh sáng Phúc âm đến cho những người chung quanh…
Thiết tưởng, chúng
ta nên ghi nhớ và thực hành lời khuyên sau đây, đó là:
- Thà thắp lên một ngọn nến còn hơn ngồi đó
mà rủa xả bóng đêm.
17.
Hãy đi rao giảng.
Lần đầu tiên sai
các môn đệ đi thực tập rao giảng Chúa Giêsu đã căn dặn họ nhiều điều. Đoạn Tin
Mừng hôm nay chỉ nói đến hai điều: hành trang phải mang theo là những gì và
phải xử trí thế nào trước những thái độ khác nhau của thính giả. Bình thường,
trước khi đi đâu, nhất là khi đi xa, lâu ngày, một người cẩn thận, bao giờ cũng
phải chuẩn bị, sửa soạn, sắm sửa hành trang. Chẳng hạn: một người tính đi du
lịch Đà Lạt hay Nha Trang, dù chỉ bốn, năm ngày hay một tuần, trước khi đi,
người ấy sẽ chuẩn bị quần áo và những vật dụng cần thiết. Một người mẹ cho con
gái đi ở riêng, trước khi tiễn con lên xe hoa, bà thường sắm sửa cho con đủ thứ
áo xống, vật dụng và căn dặn con đủ cách. Hoặc khi tiễn người con trai đi nghĩa
vụ quân sự, bà cũng lo lắng, sắm sửa, căn dặn con nhiều điều. Trong phạm vi
nghề nghiệp cũng vậy. Làm nghề gì người ta cũng sửa soạn dụng cụ cần thiết: một
bác nông dân đi làm thì phải có cày có cuốc. Trẻ em đi học thì phải có bút mực,
sách vở…
Vậy mà chúng ta
thấy, trước khi sai các môn đệ đi rao giảng, Chúa Giêsu bảo họ: không được mang
gì cả, không mang bị, không mang tiền, không mang hai áo… Tại sao vậy? Bởi vì
Chúa muốn họ ra đi truyền giáo phải có tấm lòng từ bỏ tất cả, thoát ly ra ngoài
vòng cương tỏa của vật chất. Họ sẽ sống một nếp sống bấp bênh. Có vậy họ mới
biết bám víu vào Thiên Chúa quan phòng đã sai họ ra đi.
Vấn đề ở đây, Chúa
muốn dạy các môn đệ Ngài phải có một tấm lòng sẵn sàng từ bỏ: từ bỏ cha mẹ, bà
con và chính bản thân, từ bỏ những gì cần thiết… để họ thảnh thơi ra đi, không
bon chen, không dính bén, không vướng víu; và đi đâu, đến đâu cũng được, nơi
đâu cũng là quê hương. Chúa không muốn các môn đệ Ngài trở thành những hành
khách được trang bị đầy đủ để rồi không còn lo sợ bất trắc. Không, Chúa muốn
các môn đệ Ngài phải biết đặt lòng tin vào Thiên Chúa quan phòng. Ngài muốn họ
gặp bất trắc để họ biết phó thác vào Thiên Chúa.
Sau khi căn dặn các
môn đệ từ bỏ, tín thác vào Thiên Chúa quan phòng, Chúa cho họ biết ngay rằng:
công việc rao giảng của họ không dễ dàng: có người chấp nhận, có người không.
Vậy họ phải xử trí thế nào? Chúa bảo: gặp được nhà nào tốt lành, chính đáng,
thì ở lại đó cho đến lúc ra đi. Làm như vậy là tỏ lòng kính trọng, trung thành
và biết ơn lòng hiếu khách. Còn làm khác đi dễ gây hiểu lầm, bội tín. Sở dĩ có
lời khuyên như thế là vì hồi xưa, các nhà truyền giáo không có chỗ ở cố định mà
phải nhờ vả rất nhiều vào các tín hữu để truyền giáo dần dần. Dĩ nhiên và đương
nhiên họ sẽ không được một số nơi tiếp nhận và còn ngược đãi nữa. Trường hợp
đó, Chúa cho phép ra đi tới một nơi khác, và hãy giũ bụi chân lại cho họ biết
lỗi lầm bất kính cảu họ. Người Do thái có thói quen làm như thế khi họ đi từ
vùng dân ngoại vào vùng đất của họ để minh chứng họ dứt bỏ mọi liên hệ xấu với
dân ngoại. Vậy người môn đệ làm như thế để đánh thức những ai từ chối họ, và
cho những người ấy biết rằng cư xử của họ như vậy là đã trở thành dân ngoại.
Việc Chúa Giêsu sai
các môn đệ đi rao giảng và căn dặn các ông nhiều điều, nhắc nhở chúng ta cũng
hãy làm tông đồ cho Chúa. Và tất cả chúng ta đều biết cách làm tông đồ tốt nhất,
được Giáo Hội đề cao và cổ võ nhất, là làm tông đồ bằng chính đời sống tốt lành
của chúng ta. Bởi vì đời sống của một người tín hữu chẳng những sống mà còn
mang một sứ điệp, là người phát ngôn của Chúa ở nơi mình sống. Thiên Chúa là
tác giả viết thư, còn chúng ta là những dòng chữ sống Thiên Chúa viết trên trần
gian này. Đọc bức thư là người ta hiểu được ý tưởng, vấn đề người chủ muốn
viết. Cho nên, đời sống của người Kitô hữu thánh thiện, tốt lành có giá trị
thuyết phục hơn tất cả những bằng chứng khác.
Ngược lại, nếu
chúng ta không sống như thế mà còn sống tệ hơn những người khác thì sao? Chẳng hạn như vấn đề được nêu lên trên một
tờ báo như sau: Khu xóm tôi là một xóm toàn tòng theo đạo. Những ngày Chúa nhật
hoặc lễ trọng, nhà nhà đi lễ, người người đi lễ, rất là nhộn nhịp trong bầu
không khí thánh thiện của một ngày lễ. Đó là một điều đáng mừng đáng quí. Thế
nhưng còn một điều đáng buồn cũng xảy ra thường ngày trong xóm đạo tôi, đó là
thiếu tình thương, thiếu bác ái. Chẳng hạn: hai nhà gần nhau, mấy đứa nhỏ chơi
với nhau rồi đánh nhau. Thế là hai gia đình đó cãi nhau chí tử. Chẳng hạn: buôn
bán, vay mượn tiền bạc của nhau, không biết quên sót hay thiếu đủ sao đó, rồi
cũng đi đến chỗ cãi nhau cả ngày trời, náo động cả khu xóm. Những chuyện như
vậy cứ xảy ra thường xuyên ở khu xóm tôi, một xóm toàn những người có đạo. Thế
mà mọi người vẫn thản nhiên vui sống, vẫn cứ đi lễ, đọc kinh, vẫn cứ cãi lộn,
chửi nhau. Cuối cùng, tác giả bài báo này kết luận: Ước mong xóm đạo tôi ngày
càng sống đạo tốt hơn, tức là vẫn siêng năng đi lễ, cầu nguyện, nhưng cũng biết
sống bác ái, chia sẻ hơn với mọi người chung quanh.
Có lẽ đó cũng là
điều ước mong của chúng ta. Chúng ta hãy sống đạo ở trong nhà thờ, trong gia
đình, ở khu phố, ở mọi nơi. Sống đạo thực sự như thế là chúng ta cũng đang đóng
góp phần mình vào công cuộc tông đồ của Chúa và Giáo Hội.
18.
Người sai họ đi.
Đức Giêsu sai các
tông đồ ra đi. Kitô giáo luôn là thế. Nó không bao giờ giữ lại điều gì cho
mình. Nó luôn bao hàm sự vươn tới những người khác. Nếu không có yếu tố này,
không còn là Kitô giáo nữa. Và điều đó nhiều lần được chứng tỏ bằng sự sẵn sàng
hy sinh của mỗi người.
Cho tới lúc đó, các
tông đồ ở với Đức Giêsu. Suốt thời gian qua, Người đã giáo huấn họ. Nhưng Người
đã chọn họ cho một sứ mạng – giúp truyền bá Tin mừng về nước Thiên Chúa. Đã đến
lúc họ phải góp phần vào công việc ấy. Người sai họ đi từng hai người một để họ
có thể nâng đỡ nhau và học làm việc với những người khác. Người ban cho họ
quyền nói và hành động nhân danh Người.
Hãy nhớ rằng đó chỉ
là sứ mạng tạm thời, ngắn hạn và giới hạn trong các thị trấn và làng mạc Do
thái. Sứ vụ sau cùng, khi họ được sai đến toàn thế giới, vẫn còn trong tương
lai. Sứ vụ của họ trước tiên là một sứ vụ tâm linh – rao giảng sự sám hối và
nước Thiên Chúa đã đến trong thế giới. Nhưng sứ vụ ấy cũng liên quan đến việc
chữa lành thể chất và tinh thần. Nó cho thấy Kitô giáo quan tâm đến hạnh phúc
tinh thần và vật chất của con người. Nói cách khác, nó quan tâm đến con người
toàn diện.
Họ không mang theo
những vật chất để cho người ta. Trong bất cứ trường hợp nào, họ không thể có
được những thứ ấy. Nếu việc truyền giáo gắn sứ điệp với những quà tặng vật chất
luôn luôn là điều nguy hiểm. Bởi lẽ người ta có thể chấp nhận sứ điệp với những
lý do sai lầm. Sứ điệp của họ phải tự nó tỏa sáng giá trị xứng đáng, và phải
được chấp nhận chủ yếu bởi những lý do tinh thần.
Về những trang bị
cá nhân, họ chỉ được mang những cái hoàn toàn cần thiết – dép và gậy. Về lương
thực và chỗ ở, họ phải trông cậy vào lòng hiếu khách của những người mà họ được
sai đến. Thật vậy, điều đó có nghĩa là trông cậy vào sự quan phòng của Thiên
Chúa. Nhưng bằng cách ấy, dân chúng sẽ cảm thấy họ cũng tặng lại một điều gì
đó. Sẽ có một sự chia sẻ. Điều này tốt cho các thừa sai: họ cần dân chúng nơi
họ được sai đến. Và cũng tốt cho dân ở nơi truyền giáo: tốt cho nhân phẩm của
họ, và cũng để khuyến khích lòng quảng đại của họ.
Các thừa sai phải
làm chứng về đức nghèo khó bằng sự từ bỏ những của cải vật chất. Và họ phải
chứng tỏ sự liên đới với người nghèo bằng cách liên kết trong các cuộc đấu
tranh của họ và chia sẻ sự nghèo khó với họ. Nhiệm vụ chính của họ là rao giảng
sứ điệp. Nhưng họ không thể kiểm soát, điều khiển sự đáp ứng của dân và cũng
không nên làm như thế. Họ phải tôn trọng tự do của người được rao giảng. Và họ
phải chờ đợi có người sẽ khước từ nó.
Nếu sự rao giảng
của họ bị chối bỏ, họ chỉ được phản ứng với một cử chỉ tượng trưng, phủi bụi
dính ở chân. Đây là một hành động có tính tượng trưng cao đối với người Do thái
trong thời đó. Dân chúng sẽ hiểu rõ ý nghĩa của hành động đó. Nó có nghĩa là
các tông đồ sẽ đoạn giao với họ hoàn toàn và kể từ đó coi họ như người ngoại
giáo. Tuy nhiên, cũng có nghĩa như một cữ chỉ quan tâm. Mục đích của nó là làm
cho họ nghĩ lại về những điều mà các tông đồ đã đem đến cho họ và những hậu quả
của việc khước từ. Nó cho thấy số phận của những người khước từ quà tặng của
Thiên Chúa.
Đoạn Tin Mừng này
rất thích hợp với chúng ta. Tin Mừng vẫn cần được rao giảng và cần có những
người chấp nhận nó. Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn còn thích hợp cho các thừa sai
hôm nay. Dù những điều kiện đã thay đổi, những nguyên tắc căn bản những giữ
nguyên. Những điều kiện ấy thách đố những người có trách nhiệm rao giảng Tin
Mừng và những người được rao giảng – Nó cho thấy tầm quan trọng của việc cởi mở
tâm hồn để đón nhận lời Chúa.
Tất cả chúng ta đều
gặp một thách đố lớn là phải trở thành các môn đệ hoạt động, chứ không phải là
các môn đệ thụ động; không chỉ là những người đón nhận mà còn là những người
ban phát. Không phải là cành cây khô hoặc gốc nho chết mà là những cành cây
sống và trĩu quả.
Chúng ta thấy A mốt
đã được kêu gọi bỏ công việc bình thường để đi rao giảng sứ điệp (Bài đọc 1).
Mười hai tông đồ cũng thế. Không phải chỉ một số ít chúng ta được kêu gọi rao
giảng Tin Mừng ngày nay. Nhưng tất cả chúng ta đều được kêu gọi làm nhân chứng
cho Tin Mừng. Chúng ta làm điều đó chủ yếu bằng cách sống Tin Mừng – bằng cách
làm môn đệ của Đức Kitô trong thực tế cũng như trên danh nghĩa.
19.
Trách nhiệm.
Trong một ý nghĩa,
niềm tin vào Thiên Chúa rất phiền nhiễu bởi vì nó gia tăng trách nhiệm của
chúng ta. Nếu không có Thiên Chúa, thì cũng không còn trách nhiệm – chỉ còn sự
hỗn mang và đêm dài vô tận.
Nếu một người nào
đến tìm chúng ta và cầu xin giúp đỡ, chúng ta không thể xua đuổi người ấy với
những lời đạo đức: “Bạn hãy có đức tin, hãy dâng sự khó khăn này lên Thiên Chúa
và Người sẽ giúp đỡ bạn”. Trong những trường hợp như thế, bạn nên hành động như
thể không có Thiên Chúa, như thể chỉ có một người trên thế gian này có thể giúp
đỡ, người ấy chính là tôi.
Nương tựa vào sự
quan phòng của Thiên Chúa là một chủ yếu của Kitô giáo. Nhưng nó không được
viện dẫn như một cái cớ để không làm việc gì. Chúng ta không nên lùi lại và chờ
đợi Thiên Chúa làm hết. Thiên Chúa sẽ không xuống và đích thân Người làm. Thiên
Chúa hành động qua chúng ta.
Một ngày mùa đông một người đàn ông đi đến
một cậu bé đang ngồi ăn xin trên một cây cầu của thành phố, gió thổi lồng lộng.
Cậu bé run lập cập vì lạnh và rõ ràng đang cần một bữa ăn ngon. Nhìn thấy cậu
bé, người đàn ông rất tức giận bèn nói với Thiên Chúa: “Lạy Chúa, tại sao Chúa
không làm điều gì đó cho cậu bé này?” Và Thiên Chúa đáp lại: “Ta đã làm một
điều gì đó cho nó rồi”.
Điều này làm người đàn ông ngạc nhiên, vì
thế ông nói “Con hy vọng Chúa không nói rằng: Bất cứ điều gì Chúa làm đều có vẻ
như không làm”.
“Ta cũng đồng ý với con điều đó” Chúa đáp.
“ Nhưng bằng cách nào Chúa đã làm điều đó?”
Người đàn ông hỏi.
“Ta đã làm ra con” Chúa đáp.
Không có gì sai khi
yêu cầu Thiên Chúa chỉnh đốn lại những điều sai trái và an ủi nỗi khổ đau.
Nhưng chúng ta phải nhớ một điều là Người đã giao phó những nhiệm vụ ấy cho
chúng ta.
Chúng ta là những
công cụ của Thiên Chúa. Đó là phẩm giá và cũng là trách nhiệm của chúng ta.
Chúng ta phải xác tín rằng không có tình yêu thương của chúng ta, những người
khác sẽ không hoàn thành những việc mà Thiên Chúa muốn họ làm. Chúng ta thấy
điều này rất rõ trong bài Tin Mừng hôm nay. Ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu chia
sẻ công việc mở rộng nước Thiên Chúa cho các tông đồ.
Dĩ nhiên, chúng ta
có thể tự hỏi: chúng ta có thể làm gì? Chúng ta phải trả lời câu hỏi ấy cho
chính mình. Nhưng ví dụ sau đây chỉ cho chúng ta phương hướng đúng.
Một cặp vợ chồng thất nghiệp sống ở Dallas,
Texas. Họ rất nghèo và thường đi quanh thành phố nhặt những lon bia bằng nhôm
để bán cho những nơi tái chế. Trong công việc của họ, họ phải lục lọi trong
những thùng đựng rượu vứt làm rác.
Một buổi sáng họ có một khám phá rất đau
buồn trong một thùng bia đặc biệt. Trong đó họ thấy một cái xác của một trẻ sơ
sinh. Họ báo cho cảnh sát. Cảnh sát tiến hành một cuộc điều tra nhưng không tìm
ra dấu vết của cha mẹ đứa trẻ. Thế là không có ai là người chôn cất cho đứa bé.
Cặp vợ chồng biết
ngay việc họ phải làm. Chính họ muốn nhìn thấy đứa trẻ xa lạ được chôn cất tử
tế. Nhưng việc này phải tốn tiền, trong khi họ lại có quá ít. Người vợ đem cầm
vật duy nhất có giá trị, một chiếc nhẫn cưới hột xoàn, để trả các chi phí mai
táng.
Nhờ có sự cố gắng
của họ, đứa trẻ đã đến nơi an nghỉ cuối cùng trong một quan tài màu trắng có
phủ hoa. Nước mắt của cặp vợ chồng cũng thanh khiết như nước mắt của Đức Giêsu
trước nấm mồ của bạn Người, Ladarô.
Để trở nên suối
nguồn ánh sáng trong thế gian, người ta không cần giàu sang hoặc có tiếng tăm.
Người ta chỉ cần có một tấm lòng yêu thương nồng cháy.
20.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
SAI NHÓM MƯỜI HAI ĐI RAO GIẢNG (6,7-13)
Mãi đến lúc này
Maccô mới kể cho chúng ta biết thoạt đầu Chúa Giêsu gọi vài môn đệ theo Ngài
(1,16-20), sau đó Chúa Giêsu thiết lập nhóm Mười Hai để họ “ở với Ngài” và chia
sẻ sứ vụ của Ngài (3,13-19). Và giờ đây Ngài mới sai họ đi rao giảng (c. 7).
Nhóm Mười Hai sẽ xứng đáng với tước hiệu “tông đồ”, nghĩa là “được sai đi” thi
hành sứ vụ (6,30) mà sau này họ sẽ lãnh nhận. Trong chương ngắn gọn này, xem ra
Maccô đã sử dụng cuốn tiểu cẩm nang của một thừa sai hoàn hảo. Lối hành văn vấp
váp không mạch lạc cho thấy rõ Maccô đã sử dụng lại một truyền thống có trước
ông.
Khởi đầu Chúa Giêsu
sai các môn đệ đi từng nhóm “hai người một” (c. 76). Đây không hiểu có phải là
một tập tục Do Thái không? Theo luật Môsê, cần hai nhân chứng mới xác nhận được
một lời khai (Đnl 19,15). Tuy nhiên con số hai cũng là biểu tượng của cộng
đoàn, nghĩa là các thừa sai không làm việc đơn lẻ mà làm việc theo từng nhóm.
Các Kitô hữu sơ khai đã lặp lại y hệt lối thực hành này của Chúa Giêsu. Trong
công vụ sứ đồ, các thừa sai luôn luôn đồng hành từng cặp với nhau: Phêrô và
Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phalô và Barnabê (Cv 13,2); Giuđa và Sila (Cv 15,22b)…
Chúa Giêsu cũng ban cho các thừa sai này một phần quyền năng của Ngài, đó là
quyền trừ quỷ, như là một trong dấu chỉ xác thực rằng Vương Quốc Thiên Chúa đã
được khánh thành.
Điều đáng nhớ trước
hết: các lệnh Chúa Giêsu truyền cho các thừa sai (c. 8-9) lại là các lệnh
truyền dành riêng cho khách bộ hành. Tuy nhiên, các huấn luyện ấy đặc biệt nhấn
mạnh đến đức tính khó nghèo mà các thừa sai phải chứng tỏ cho mọi người thấy.
Ngay cả những gì thiết yếu (như bánh mì, tiền túi) thì cũng sẽ chỉ được nhận
lãnh như những quà tặng của những người được họ ghé thăm. Phong thái họ cực kỳ
đơn giản giống như những lữ khách lòng không hề vướng bận (không túi xách đi
đường, không áo dài để thay đổi). Ngược với Matthêu và Luca, để bước đi cho dễ,
Maccô cho rằng gậy và dép là cần thiết. Vào thời đó, hầu như người ta thường đi
chân không. Tuy nhiên để đi nhưng chặng đường dài, xem ra cần phải có gậy và
dép. Có lẽ ở đây Maccô muốn trình bày các trợ tá của Chúa Giêsu như những
“khách hành hương” luôn luôn sẵn sàng lên đường, như những kẻ được mô tả trong
nghi thức lễ vượt qua: “Nịt thắt ngang hông, giầy dép xỏ vào chân, tay cầm sẵn
gậy” (Xh 12,11).
Các lời khuyên liên
quan đến việc tiếp đãi còn đáng ngạc nhiên hơn (c. 10-11). Là thừa sai đi rao
truyền sứ điệp một cách vô vị lợi, nên họ có quyền được những gia đình mà họ
ghé tiếp đón họ một cách vô vị lợi. Tuy nhiên Tin Mừng không mang tính áp đặt,
mà chỉ có thể được đón nhận trong tự do. Nếu thành phố hay làng mạc nào từ chối
không đón nhận thì người ta sẽ đi qua chỗ khác nhưng đồng thời vẫn tôn trọng sự
từ chối đó. Ở đây Maccô mô tả lại nghi thức xưa kia thường được dùng ở phương
Đông: Phủi bụi khỏi chân mình khi rời bỏ một nơi chốn thù nghịch để tỏ dấu
tuyệt giao!
Giống như Chúa
Giêsu (c. 12-13), nhóm Mười Hai lên đường loan báo Nước Thiên Chúa đã đến và
mời gọi mọi người hoán cải (1,15). Giống như Ngài, họ cũng chứng thực lời nói
của họ bằng việc ban phát những dấu chỉ để giúp người ta tin họ. Việc xức dầu
trên bệnh nhân chứng thực đây là một thói quen đã có từ xa xưa. Người ta từng
biết công dụng hữu ích của việc xức dầu lên thân thể. Giáo Hội về sau đã nhận
ra trong tập tục này mầm giống một phép bí tích đó là bí tích Xức dầu bệnh nhân
để chữa lành thể xác và tâm linh của họ (x. Gc 5,14).
Đối với chúng ta
ngày nay xem ra rất cổ kính xét về mặt hình thức của nó bởi vì rõ ràng nó chịu
ảnh hưởng sâu đậm của các phong tục thời xưa. Tuy nhiên tận căn nó vẫn hiện
thực. Tin Mừng phải luôn luôn được cơ động mang đến khắp mọi nơi bằng những
phương tiện nghèo khó. Được trao ban vô vị lợi, Tin Mừng này mời gọi lương tâm
tự do đón nhân. Đây là lời nói đi kèm theo các dấu chứng sự chiến thắng của
Chúa Kitô trên sự Dữ và Thần Chết. Đó chính là sứ điệp trường cửu của trình
thuật rất cổ kính này.
21.
Chú giải của Noel Quesson.
Chúa gọi Nhóm Mười Hai lại, và sai đi từng
hai người một.
Một trong những
việc làm đầu tiên của Đức Giêsu, ngay từ bắt đầu cuộc sống công khai, là chọn
những cộng tác viên (Mc 1,16). Sau khi đã dần dần bổ sung nhóm môn đệ (Mc
2,14), cuối cùng Đức Giêsu đã chọn 12 vị. Con số tượng trưng ám chỉ ý định của
Người muốn thành lập một dân tộc Israel mới, dựa theo mười hai Tổ phụ hay mười
hai Chi tộc. Trong phần đầu của Tin Mừng, chúng ta thấy các Tông đồ đi theo Đức
Giêsu và ở "với Người" (Mc 3,14).
Hôm nay, có thể
nói, Đức Giêsu sắp ẩn mình đi và trao phó sứ vụ của Người trong tay các tông
đồ. Lần đầu tiên các ông đi rao giảng một mình, không có Đức Giêsu. Đó là thời
kỳ Giáo Hội đang bắt đầu. Trước tiên, chúng ta có thể cầu nguyện dựa trên thái
độ này của Người: Thiên Chúa của chúng ta, Người trao cho chúng ta những trách
vụ quan trọng: Người không điều khiển chúng ta như những con rối. Tôi có những
trách nhiệm nào? Lạy Chúa, Chúa chờ đợi gì nơi con?
Chúa sai họ đi.
Trong năm chương
đầu của trình thuật, Maccô đã nhấn mạnh cho chúng ta thấy "Đức Giêsu với
các môn đệ", tạo thành một nhóm duy nhất và hợp nhất đối lại với đám đông,
với các đối thủ. Vào lúc "kêu gọi" các ông (Mc 3,13-14), Maccô ghi
nhận, Đức Giêsu đã "thiết lập Nhóm Mười Hai" để ở với Người và để
Người "sai họ đi". Đó cũng chính là chuyển động của trái tim: Tâm
trương… tâm thu... máu vào tim rồi chuyển đến các cơ quan. Hoạt động tông đồ
thông thường cũng như thế: Sống kết hợp mật thiết với Chúa Kitô, mang Đức Kitô
đến khắp nơi trên thế giới. Đó cũng là hoạt động của đời sống Kitô hữu: Tập họp
quanh Chúa vào mỗi Chúa nhật, tản mác trong cuộc sống hằng ngày để nên nhân
chứng sống động của Chúa.
“Anh hãy đi! Anh em
được sai đi" "Ite, Missa est" chữ Messe (Thánh Lễ) có nghĩa là
"sự sai đi". Chính Chúa đã thiết lập nhịp sống đó. Tôi có sống như
thế không? Tôi có thường sống "với Chúa" trong suy niệm, trong nguyện
cầu không? Tôi có ý thức mình được Chúa "sai đi" vào đời sống thướng
nhật để làm một việc gì đó, có liên quan đến Chúa không?
Người sai đi từng hai người một.
Phải có hai người
thì chứng tá mới có giá trị (Ds 17,6; 19,5). Dân gian đã khôn ngoan đặt ra
nhiều câu ngạn ngữ để nói về điều này. "Hai người có giá trị hơn một, nếu
họ ngã, người này đỡ người kia dậy, nhưng khốn cho kẻ đi một mình" (Gv
4,9).
Quy tắc đầu tiên
của việc tông đồ là tạo thành nhóm. Nếp sống huynh đệ là một bài giảng về tình
yêu, trước khi bàn tới. "Các bạn hãy nhìn xem họ thương nhau biết
bao!". Chứng tá Kitô hữu phải nhắm đến một hình thức cộng đoàn trong Giáo
Hội. Đó là ý muốn rõ ràng của Đức Giêsu. Vậy tôi phải tự vấn về thái độ của
tôi. Chủ nghĩa cá nhân có nhưng hình thức tinh vi và đáng sợ: Chúng ta không
thích những người anh em khác kiểm tra thái độ sống của riêng mình. Tuy nhiên?
Người chỉ thị cho các ông không được mang gì
đi đường, trừ cây gậy; không được mang lương thực, mang bao bị, mang tiền giắt
lưng; được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.
Điều đáng lưu ý là
chúng ta không thấy Đức Giêsu dặn dò các Tông đồ về nội dung giáo thuyết,
"Sứ vụ” của các ông. Chúa không bảo các ông “phải giảng điều gì".
Người chỉ nhắc nhở các ông những chi tiết "phải sống". Đối với Đức
Giêsu, chứng tá bằng cuộc sống quan trọng hơn chứng tá bằng lời nói.
Thực tế lời khuyên
duy nhất của Thầy liên quan đến đòi hỏi sống nghèo khó. Những người đại diện
Chúa phải tỏ ra mình không cậy dựa vào sự giúp đỡ, vào uy tín nào của con
người. Tất cả chỉ dựa vào niềm tin nơi Đấng đã sai họ. Thánh Phaolô sẽ khai
triển đòi hỏi này khi khẳng định: "Vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời lên
gương mặt Đức Kitô, nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong bình đất,
để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ
chúng tôi" (2 Cr 4,6-7). Thánh Phaolô cũng khoe về sự nghèo khó của mình:
"Khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời nói hùng hồn hoặc triết lý
cao siêu... nhưng tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy... có vậy đức tin
của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng
Thiên Chúa" (l Cr 2,1-5).
Vâng, điều Đức
Giêsu muốn, đó là những đoàn ngũ phải nhẹ nhàng, không có những hành trang cồng
kềnh, luôn sẵn sàng đi nơi khác. Lữ khách, phải là người sẵn sàng. Có lẽ, Giáo
Hội không ngừng tự "làm nhẹ bớt" để sẵn sàng theo sự thúc đẩy của
Thánh Thần.
Còn tôi? Tôi sống
thế nào trước đòi hỏi nghèo khó này? Đức Giêsu đã nói rõ với các bạn hữu của
Người, chỉ mang theo những vật hết sức cần thiết. Chiến thắng sự cám dỗ của
tiền bạc là chiến thắng đầu tiên của Tin Mừng, là bài giảng đầu tiên rất cần
thiết cho một thế giới tham lam, là trận chiến hàng đầu (nơi chính bản thân
mình trước hết) chống lại một kẻ thù lớn của nhân loại: Sự chiếm hữu của cải!
Nguồn gốc của chia rẽ, tranh chấp và kiêu ngạo!
Lạy Chúa, xin giúp
chúng con đến gần lý tưởng từ bỏ mà Chúa mong muốn.
Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe
lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ.
Chúng ta ngạc nhiên
vi tầm quan trọng của thái độ khước từ “tiếp nhận" trong diễn từ của Đức
Giêsu. Nhưng môn đệ của Người có thành công lắm không? Hình như không được khá
lắm. Người ta dễ dàng đoán được những ý nghĩ: "Các ông muốn chúng tôi trở
lại chăng? Nhưng hiện nay chúng tôi rất tốt! Chúng tôi là những người Do Thái
tốt theo truyền thống. Tại sao phải thay đổi những thói quen của chúng tôi? Xin
các ông hãy đi giảng đạo nơi khác" Những khó khăn của Kitô hữu khi trình
bày đức tin không phải chỉ ngày nay mới có, Đức Giêsu nói với chúng ta hôm nay:
"Các con chớ có lo lắng. Đây là điều Thầy đã tiên liệu, Thầy đã báo trước
cho các con". "Chúng ta chớ nên ảo tưởng".
Ngày nay cũng như
thời Đức Giêsu sứ điệp đích thực của đức tin vẫn bị đa số khước từ, không đón
nhận. Vì thế điều Đức Giêsu yêu cầu chúng ta là: Luôn đứng vững đừng ngã lòng:
"Nếu người ta không tiếp nhận các con, các con hãy đi nơi khác". Chịu
đựng thái độ không tin, lãnh đạm, chối bỏ,... điều đó xem ra hết sức bình
thường đối với Đức Giêsu. Sự thật là khó khăn. Đức Giêsu đã báo trước điều đó
cho những người được sai đi rao giảng Tin Mừng.
Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn
năn sám hối. Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa
họ khỏi bệnh.
Họ đã làm đúng
những gì họ thấy Đức Giêsu làm khi họ "ở với Người". Nội dung của nỗ
lực "truyền giáo" gồm 3 giai đoạn:
1. Rao giảng lời
Chúa, đòi hỏi một sự thay đổi đời sống, một cuộc hoán cải.
2. Chiến đấu chống
sự dữ, xua đuổi ma quỷ ra khỏi con người để giải thoát họ.
3. Hoạt động giúp
người nghèo, cải thiện đời sống và chữa lành bệnh tật.
Hoán cải
Đó là nội dung thứ
nhất của việc rao giảng: Hãy thay đổi cách sống. Hãy hoán cải. Chúng ta hiểu vì
sao các Tông đồ được ít người nghe theo và bị từ chối . Thông thường, con người
không thích "thay đổi" cách sống: Hãy để cho chúng tôi yên! Thế mà,
Thiên Chúa lại hay gây phiền hà, Người yêu cầu chúng ta dấn thân vào một cuộc
sống mới. Chữ Hy Lạp "mitanoa" dịch ra là "hoán cải", có
nghĩa là “đổi ngược tinh thần". Vậy là phải đổi hướng: Chúng ta đã đi theo
một hướng, bây giờ phải quyết tâm đổi ngược lại. Đây không phải là điều dễ. Tin
Mừng luôn mang tính ác liệt. Chúng ta đã biến Tin Mừng trở nên loại gì? Một thứ
học thuyết thiếu năng động? Một thứ thuốc ngủ? Một thứ nâng đỡ cho trật tự hiện
hành? "Các Ngài đã kêu to" “ékèruxan" phải thay đổi cuộc sống
"Metanoôsin".
Trừ quỷ
Chắc hẳn Maccô đã
dùng những cách mô tả theo tâm thức của những người đương thời, nhưng rõ ràng
sứ vụ mang tính chất bi kịch. Đó là một cuộc chiến! Một cuộc chiến chống lại
quyền lực của sự dữ trên thế giới. Những "nhà truyền giáo" những
người được Chúa "sai đi" không quảng cáo cho một sản phẩm để bán
chạy. Các Ngài đã lên đường để đương đầu với một đối thủ ghê gớm. Sự chống đối
mà các Ngài gặp không chỉ đến từ những người khước từ vì không hiểu. Có một lực
lượng đối kháng. Một sự chống lại Tin Mừng đến từ xa hơn: Đó là những điều
chúng ta gọi là 'tội lỗi thế gian’. Ngày nay, chúng ta có thể diễn tả thế nào
về những thế lực xấu xa mà chúng ta phải chống lại để xua đuổi chúng.
Chữa lành
Lôi kéo con người
ra khỏi những thế lực xấu làm cho họ hư mất, đó cũng là giúp họ thăng hoa phẩm
giá một cách tích cực, là chữa lành họ. Đây là một trong những đòi hỏi rõ ràng
của Đức Giêsu. Mệnh lệnh vẫn có giá trị, mặc dù trong bối cảnh văn minh hiện
nay, nó mang một hình thức cụ thể khác.
Rao giảng Tin Mừng.
Không phải chỉ là
"giảng dạy" mà đặc biệt còn là "giải thoát". Ngày nay rao
giảng Tin Mừng phải có những hình thức tân tiến và thích ứng thế nào để phù hợp
với thời đại của chúng ta? Chúng ta phải chiến đấu chống lại những sự dữ nào?
Xã hội chúng ta cần sự chữa lành nào?
Tin Mừng vẫn luôn
mang tính thời sự, nhưng chính chúng ta không còn nghe được lời kêu gọi hoán
cải của Tin Mừng nữa.
22.
Chú giải của Fiches Dominicales.
CHÚA KÊU GỌI VÀ
SAI CÁC ÔNG ĐI TRUYỀN GIÁO
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Công việc truyền giáo của Nhóm Mười Hai.
Ngay từ những trang
đầu Tin Mừng của mình, Maccô đã muốn kể lại việc Chúa kêu gọi Simon và anh của
ông là Anrê, cùng với hai anh em Giacôbê và Gioan khi Người đang đi dọc theo
Biển Hồ Galilê (1,16-20); Người nói với các ông ấy: “Tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người như lưới cá!” Maccô cũng cho ta thấy khi tới
Capharnaum vào một ngày Sabát, Đức Giêsu "cùng với các môn đệ đi vào
thành” (1,21). Sau đó thánh sử còn cho ta thấy Đức Giêsu "Lập Nhóm Mười
Hai để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ
quỷ”(3,14-15). Con số Mười Hai ám chỉ mười hai chi tộc Israel là dấu chỉ Chúa
muốn khai sinh một dân Thiên Chúa mới nơi bản thân các ông.
Giờ đây Maccô gợi
nhớ lại buổi truyền giáo ban đầu của Nhóm Mười Hai mà Ngài lại đặt vào trong
một nghịch cảnh là sau chuyến viếng thăm thất bại của Đức Giêsu khi trở về quê
hương Nagiarét. Maccô viết: "Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai
đi”. Hai động từ "Gọi, sai đi" diễn tả rõ rệt ơn gọi của các ông. Các
ông sẽ là những "Tông đồ" của Đức Giêsu, nghĩa là những người được
Chúa "sai đi”, như Tin Mừng thứ hai sẽ nói đến, khi các ông đi truyền giáo
về (6,30).
Những lời tiếp theo
là chỉ thị Đức Giêsu ban bố cho các tông đồ trước khi lên đường truyền giáo. M.
Quesnel ví những lời đó như "một loại thủ bản, một cẩm nang cho một nhà
truyền giáo hoàn hảo" ("Comment lire un évangile?", Seuil, trang
103).
- Đức Giêsu sai các ông đi:
“Từng hai người một".
J. Potin giải
thích: đó là tập tục các kinh sư. Vẫn thi hành đối với các môn sinh của họ. Hai
người có chứng từ phù hợp nhau chứng tỏ rằng họ cùng được sai đi từ một người.
Thực vậy, sứ điệp họ mang đi không phải là của riêng các ông, mà là của Đức
Giêsu " (Jésus, l'histoire vraie", Centurion, trang 266-267). Nhóm
Mười Hai không được “tính toán cho mình". Sứ mệnh của các ông bắt nguồn từ
Đức Giêsu; đây là công việc của nhóm, là hành đông mang tính cộng đoàn.
Và thực tế như vậy,
trong Công vụ Tông đồ, chúng ta sẽ thấy các nhà truyền giáo ấy thường lên đường
với nhau "từng hai người một”. Phêrô đi với Gioan (Cv 3,1; 4,13); Phaolô
với Banabê (Cv 1 3,2); giuđa và Sila (Cv 15,22).
- Đức Giêsu ra chỉ thị cho các
kẻ Người gọi và sai đi như vậy phải có tinh thần khó nghèo và từ bỏ:
] Khó nghèo xét về hành trang đi đường: "Một cây gậy, một đôi
dép" là những gì Người cho phép. Người cũng không đồng ý cho mang hai áo”.
Những kẻ được Chúa sai đi sẽ là những con người thanh thoát, không cồng kềnh,
mà rong ruổi như Người và luôn sẵn sàng lên đường đi loan báo Tin Mừng.
] Khó nghèo xét về những phương tiên sinh sống: không được mang lương
thực, bao bị, tiền giắt lưng”. Hành trình như vậy đặt các người được sai đi
tong tư thế tùy thuộc. Họ sẽ nhận lương thực và tiền túi từ tay những ai sẽ
tiếp rước họ.
Đức Giêsu không
giấu giếm họ: con đường truyền giáo là con đường gian khổ. Cũng như Người họ
phải đón nhận rủi ro bị chối từ hay xua đuổi Các ông phải đi theo Người đến độ
phải bị chống đối, phải hy sinh thân mình.
2. Một sứ mệnh nối tiếp sứ mệnh của Đức
Giêsu.
Sứ mệnh của Nhóm
Mười Hai không phải là của riêng các ông, đó chính là sứ mệnh của Đức Giêsu nối
tiếp nơi bản thân các ông: các ông rao giảng cùng một sứ điệp như Đức Giêsu là
"Sám hối” (Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" Mc 1,14-15); các
ông thực hiện cùng những dấu chỉ như Đức Giêsu là "trừ quỷ"và nếu
Maccô ghi nhận rằng nhờ việc "xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ
khỏi bệnh" thì hẳn là để ám chỉ rằng các ông hành động nhờ quyền năng của
một ai khác là Đức Giêsu vậy.
Là những người được
kêu gọi và sai đi, Nhóm Mười Hai không được giới thiệu ở đây như là những
chuyên viên có ít nhiều chuyên môn hay là những người chuyên trách rao giảng
Tin Mừng. J. Delorme kết luận: "Maccô mang lại cho sứ mệnh của nhóm Mười
Hai một chiều kích rộng lớn hơn cả không phủ nhận một sự thật là bất cứ tác vụ
nào trong Hội Thánh đều có thể tìm thấy nền tảng nơi sứ mệnh của Nhóm Mười Hai,
trình thuật này của thánh Maccô có thể nhắc cho mọi tín hữu nhớ rằng họ thuộc
một Hội Thánh được sai đến với mọi người và họ phải là nhân chứng của Đức Giêsu
trước mặt người đời”.
BÀI ĐỌC THÊM
1. "Sứ mệnh của Nhóm Mười Hai, một cột
mốc quan trọng và mang nhiều ý nghĩa"
(J. Delorme,
"Assemblées du Seigneur" số 46, trang 49).
Không những mang
giá trị lịch sử, bài trình thuật về sử mệnh của Nhóm Mười Hai ở Galilê, trong
Tin Mừng Maccô còn hoàn thành một chức năng cao hơn. Trình thuật ấy ghi một cột
mốc quan trọng, có ý nghĩa, ở buổi ban đầu của Hội Thánh cũng như trong sự
triển khai một công trình vẫn được theo đuổi trong Hội Thánh và thế giới. Khi
đọc trình thuật này Hội Thánh được mời gọi nhận ra ơn gọi của mình. Ơn gọi này
bao hàm một sứ mệnh không cho phép Hội Thánh được tự kết cấu thành xã hội khép
kín đối với chính mình hoặc đối với bất kỳ mô hình văn hóa-xã hội nào. Trong
trình thuật của Maccô, khi sai Nhóm Mười Hai ra đi, không kèm theo một xác định
rõ ràng nào về địa điểm, nơi chốn phải tới để hạn định các ông (so sánh với Mt
10, 5-6 và Lc 9,6; 10,1). Mà theo sau đó là cả một bài tập nghề khó khăn đối
với các môn đệ, khiến Đức Giêsu phải gia tăng các phép lạ và những lời cảnh
giác rút vào ngay trong Do Thái giáo (7,8-13). Theo cái nhìn của Hội Thánh,
Nhóm Mười Hai chính là những bảo chứng cho phần vụ mà Hội Thánh phải gánh vác
là giới thiệu Tin Mừng cho tất cả mọi người.
2. "Được liên kết với sứ mệnh của
Chúa"
"Đức Giêsu cho
con người liên kết với công việc chính Người đang thực hiện. Người mở rộng công
việc rao giảng, rời bỏ làng mạc cùng gia đình, đi đến các làng chung quanh mà
giảng dạy. Người gọi Nhóm Mười Hai để ở bên Người rồi sai họ đi. Các ông sẽ
phải lao vào cùng một cuộc chiến như Chúa, nên Người ban cho các ông
"quyền trừ quỷ”. Thế là các ông ra đi từng hai người một, kêu gọi người ta
ăn năn sám hối, trừ được nhiều quỷ, chữa nhiều người đau ốm khỏi bệnh. Rồi đây
cuộc đời của các Tông đồ sau khi Chúa sống lại và ban Thánh Thần, sẽ như thế
nào, thì lúc này đã được khởi sự như một bước thí nghiệm vậy. Bởi đấy người môn
đệ của Đức Giêsu chia sẻ sứ mệnh của Người. Người môn đệ ấy loan báo và truyền
đạt ơn cứu độ, ơn chữa lành ơn giải thoát. Đức Giêsu làm cho người môn đệ ấy
trở thành cộng tác viên của Người. Người môn đệ mang cùng một tâm tư, có chung
cùng hoạt động và những bận tâm như Thầy mình. Từ nay, những "ưu tư ” của
người môn đệ trở nên đơn giản vì "Người chỉ thi cho các ông không được
mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy, không được mang lương thực, bao bị, tiền
giắt lưng. Đi theo Đức Giêsu, không phải là sống cách biệt với sứ mệnh. Nhưng
là dấn thân đi đến gặp gỡ mọi người với tinh thần đơn sơ, từ bỏ và tự do, để
loan báo tin vui và mang đến cho họ ơn cứu độ".
3. “Từ di sản đến cử chỉ đề nghị"
("Thư gởi
người Công giáo Pháp", Cerf, trang 36-37).
Cái thời mà Hội
Thánh thực Sự hoá thân với đại bộ phận xã hội, dầu gặp phải nhiều chống đối và
thách đố, công việc truyền bá đức tin đều được tiến hành gần như tác động, nhờ
vào những bộ phận chuyên lo việc truyền bá này còn có mặt ở cả những cơ quan
điều hành thông thường của xã hội nửa. Do đó mà kiểm chứng được câu ngạn ngữ cho
rằng người ta không sinh ra làm người tín hữu, nhưng cử thành người tín hữu (có
đạo theo kiểu cha truyền con nối).
Dần dà với thời
gian, chúng ta phải nhìn nhận rằng hoàn cảnh xa xưa này có những điều bất tiện,
bởi lẽ khi việc loan báo đức tin ít nhiều bị thu gọn vào công việc thi hành
những thủ tục gần như tự động để truyền đạt, người ta khó mà nhận thấy được
những lệch lạc có thể xảy ra. Có những lệch lạc thực sự đã dẫn đến một thứ tục
hóa đức tin chừng nào đạo Công giáo nhắm trở thành một phận vụ của xã hội và
Hội Thánh thì được coi như một dịch vụ bình thường của xã hội.
Hoàn cảnh hiện nay
lại có những khó khăn mới. Thực vậy, việc truyền bá đức tin ngày nay đang bị
thỏa hiệp, hoặc rất khó thực hiện trong những khu vực rộng lớn của xã hội Pháp.
Điều có vẻ nghịch
lý là hoàn cảnh này đòi buộc chúng ta phải đón nhận chiều kích mới mẻ của đức
tin và kinh nghiệm sống đức tin ấy. Chúng ta không còn có thể chỉ hài lòng với
một di sản đã thừa hưởng dù nó có phong phú đến đâu. Mà phải mở lòng đón nhận
ân huệ Chúa ban trong những điều kiện mới mẻ và đồng thời tìm lại được cử chỉ
ban đầu của việc phúc âm hóa đó là thái độ đề nghị đơn sơ mà cả quyết của Tin
Mừng đức ki tô (Giáo Hội chỉ rao giảng Tin Mừng như một đề nghị để mỗi người tự
ý quyết định lựa chọn).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét