Chúa Nhật 22 Thường Niên
Bài Đọc I: Đệ Nhị Luật 4:1-2,6-8
II: Giacôbê 1:17-18,21-22,27
|
|
Phúc Âm
Máccô 7:1-8, 14-15,
21-23
1 Có những người Pharisêu và một số kinh sư tụ
họp quanh Đức Giêsu. Họ là những người từ Giêrusalem đến.
2 Họ thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay
còn ô uế, nghĩa là chưa rửa.
3 Thật vậy, người Pharisêu cũng như mọi người
Dothái đều nắm giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa
tay cẩn thận;
4 thức gì mua ngoài chợ về, cũng phải rảy nước
đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và
các đồ đồng.
5 Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu:
"Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay
ô uế mà dùng bữa ?
6 Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia thật đã
nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.
7 Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì
giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.
8 Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà
duy trì truyền thống của người phàm".
14 Sau đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà
bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ:
15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con
người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người
xuất ra, là cái làm cho con người ô uế.
21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất
những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người,
22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác
táng, ganh tỷ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng.
23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên
trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế."
|
|
Chi
Tiết Hay
·
Đối với người Do Thái xưa cũng như nay, Lề
Luật Môisen gồm có Mười Điều Răn và năm cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước. Điều
được đem ra tranh luận ở đây không phải là Lề Luật nói trên nhưng là những
nguyên tắc luân lý hoặc những luật bất thành văn mà người Pharisêu và Ký Lục
coi trọng tương đương và tuân giữ một cách nghiêm chỉnh.
·
Máccô dùng câu 3 và 4 có ý để giải thích cho
người ngoại chưa quen biết phong tục tập quán của người Do Thái. Điều đó nói
lên Máccô muốn viết cho đối tượng nào và với mục đích gì.
·
Nguyên nhân để tranh cãi ở đây không phải là
sự vệ sinh cá nhân nhưng chỉ là một nghi thức rửa tượng trưng. Người Pharisêu
muốn bắt dân phải làm những lễ nghi này như các tư tế hay làm để chứng tỏ
hình ảnh một dân tộc tư tế.
·
Đối tượng mơ hồ mà Isaia nói trong câu
"Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa
ta", nay đã bị Đức Giêsu đem ra ánh sáng: các Biêt Phái và kinh sư chỉ
là những kẻ đạo đức giả mà Isaia đã nói đến.
·
(c.14) Giống như dân chúng và những kẻ chống
đối Đức Giêsu, các môn đệ của Ngài đã yên lặng như tờ trong suốt bài giảng
của Ngài, chứng tỏ họ cũng chẳng "nghe thấy" và cũng chẳng
"hiểu" Thầy mình nói gì, làm cho Đức Giêsu đã phải tỏ ra bực mình
khi Ngaì nói với các ông trong c.18: "Cả anh em nữa, anh em cũng ngu tối
như thế sao?"
|
|
Một
Điểm Chính
Đức Giêsu đã chứng minh cho thấy những người Pharisêu và
những kinh sư đã phá hỏng Lề Luật của Chúa bằng những tục lệ của họ.
|
|
Suy
Niệm
1. Những
nghi thức tôn giáo của chúng ta đang đóng những vai trò nào? Và giúp ích cho
đức tin của chúng ta ra saỏ
2. Điều
gì xuất phát từ trong lòng tôi mà tôi thích và điều gì tôi không thích? Làm
cách nào để tôi ý thức và kiểm soát chúng?
Các bài suy niệm CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN - B
|
Lời
Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23
1.
Tình mến.
Dân
này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Qua
lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương
và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều
này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại
bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa
cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân
thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành
động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động
ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn
bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ
bôi bác và giả hình mà thôi.
Đúng
thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ
hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái
yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm
đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò
nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em,
khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này
thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật
của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm
không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang
giá trị.
Đối
với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra
những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có
được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư
tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm.
Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là
những kẻ bôi bác và giả hình.
Có một nhà triệu phú chết đi để lại
một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại quốc từ nhỏ, nên không
ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo thì người ta thấy có
ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh phần sản nghiệp. Viên
quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân dung của nhà triệu phú.
Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu súng và bảo: Nếu ai bắn
trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia
nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai
cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu. Chàng thanh niên thứ
ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau cùng đã nói: Tôi không
bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà chạy đến và nói: Chính
anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần gia nghiệp.
Nếu
không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị lật tẩy, vì chúng ta
chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.
2.
Nghi thức bên ngoài.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị
cầm tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm kéo dài cuộc sống. Thời gian
trôi qua và ông ta yếu dần. Cuối cùng người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ
bảo rằng: cơ thể ông ta bị thiếu nước. Thế nhưng đám lính canh lại thắc mắc
không hiểu vì sao vị Rabbi này lại có thể thiếu nước, vì khẩu phần nước tương
đối đầy đủ.
Và thế là họ kín đáo quan sát ông ta.
Cuối cùng họ đã khám phá ra lý do. Sở dĩ cơ thể ông ta thiếu nước vì ông ta đã
dùng phần lớn số nước được cung cấp để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước
khi cầu nguyện và dùng bữa.
Câu
chuyện trên cho thấy các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã bực bội như thế nào,
khi các môn đệ Chúa ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng tập tục tiền nhân.
Ngược
dòng thời gian chúng ta thấy người Do Thái có hai thứ luật. Luật thành văn và
luật truyền khẩu. Luật thành văn vừa cổ lại vừa quan trọng vì nó căn cứ trên
những sách của Cựu ước và đôi khi còn được gọi là luật Maisen. Một số luật này
mang tính cách cụ thể và đặc thù, còn lại thì rất chung chung giống như những
kiểu mẫu phải theo hơn là lề luật. Trong một thời gian dài, người Do Thái bằng
lòng với những kiểu mẫu này và họ áp dụng vào đời sống vì thấy nó thích hợp.
Tuy
nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, một nhóm chuyên nghiên cứu về luật
đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân. Họ thấy những điều luật tổng quát
quá sơ sài, mơ hồ cần phải được soạn thảo lại. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ
hai, gồm những luật truyền khẩu. Rất nhiều người Do Thái muốn bắt chước các tư
tế về sự thánh thiện bên ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn: theo luật
thành văn thì mọi tư tế đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ,
mục đích là tẩy rửa đi những gì ô uế để xứng đáng thờ phượng Chúa. Dần dần dân
chúng cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện và khi dùng bữa.
Vào
thời Chúa Giêsu, họ tuân giữ cặn kẽ thứ luật truyền khẩu này, để rồi tôn giáo
dần dần thái hóa và biến thành một hoạt động đơn thuần chỉ là chu toàn những
nghi thức bên ngoài. Theo họ, tuân giữ nghi thức bên ngoài là đẹp lòng Chúa,
bằng không thì phạm tội và những kẻ tuân giữ được coi là người đạo đức. Họ có thể
căm ghét kẻ khác nhưng lại chẳng hề áy náy bao lâu còn tuân giữ việc rửa tay và
những nghi thức khác về sự thanh tẩy.
Họ
giống như một người Hồi giáo đang phi ngựa rượt theo kẻ thù, chợt nghe chuông
báo giờ cầu nguyện. Thế là anh ta xuống ngựa, quì gối cầu nguyện theo luật
định, rồi sau đó lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù.
Từ
đó chúng ta đi tới kết luận: đừng đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những
hành vi bên ngoài như đi lễ, đọc kinh, xưng tội… Tự chúng chưa bảo đảm rằng
chúng ta đã thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả
những việc này vì lý do không mấy ngay thẳng, hay làm không phải vì yêu thương.
Điều quan trọng không phải là việc chúng ta làm mà chính là tình yêu trong trái
tim thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu trái tim chất đầy kiêu căng thì mọi nghi
thức bên ngoài trước mặt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta trở nên thánh
thiện trước mặt Chúa. Bởi vì như lời Chúa đã quở trách người Do Thái: dân này
thờ kính Ta ngoài môi ngoài miệng, còn lòng họ thì lại xa Ta.
Tóm
lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là làm việc này việc kia, mà chính
là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta phải được
xuất phát từ con tim, từ tình yêu: Mến Chúa và yêu người, thì mới thực sự có
giá trị.
3.
Từ trái tim con người.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Đoạn
Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một chuyện nhỏ: chuyện các môn đệ không rửa tay
trước khi ăn. Đối với người Pharisêu, sau khi ra nơi phố chợ, người ta thường
trở nên ô uế do đụng chạm. Phải rửa tay, vì tay ô uế làm đồ ăn ô uế, và đồ ăn ô
uế sẽ khiến cả con người ô uế.
Đức
Giêsu đã long trọng khẳng định: "Không có gì từ bên ngoài vào trong con
người lại có thể làm cho con người ra ô uế" (c.15). Khẳng định này là một
cuộc cách mạng trong Do Thái giáo, bởi lẽ đời sống người Do Thái bị bao vây bởi
nhiều cấm kỵ: không được ăn thịt heo, hay thịt thú chết ngạt; không được đụng
vào xác chết, vào người phong cùi; không được ăn chung với dân ngoại hay vào
nhà người tội lỗi... Đụng vào hay ăn vào là ô uế ngay.
Đức
Giêsu đã phạm nhiều điều cấm kỵ, đã phá đổ nhiều bức tường ngăn cách kẻ xấu -
người tốt, dân Do Thái và dân ngoại, nam và nữ, nô lệ và tự do... Ngài hồn
nhiên đến với những người bị coi là ô uế để làm họ nên sạch.
Thật
ra Đức Giêsu chẳng phản đối gì chuyện rửa tay, nhưng Ngài thấy nó có vẻ giả
hình vì người ta chẳng để ý đến chuyện tẩy rửa trái tim. Rửa tay để được yên
tâm, mãn nguyện, tránh khỏi phải rửa tâm hồn là điều khó hơn. Đức Giêsu cho ta
thấy cái ô uế thực sự lại không đến từ đụng chạm hay ăn uống. Cái ô uế đáng sợ
nằm ngay trong trái tim mỗi người. Nó không từ ngoài vào, nhưng từ trong ra.
Ngài
kể ra 12 ý định xấu xa bắt nguồn từ trái tim, ý định xấu dẫn đến hành động
không đẹp (cc.21-22).
Cần trở về với trái tim của mình.
Đó
không phải là một cuộc dạo chơi, nhưng là một thách đố dám nhìn cái tôi sau lớp
mặt nạ.
"Hãy tạo cho mình một trái tim
mới" (Ed 18,31).
Đó
là lệnh truyền của Đức Chúa, nhưng con người chẳng thể tự mình thay tim.
"Ta sẽ thanh tầy các ngươi. Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới"
(Ed 36,25tt).
Đổi được trái tim là đổi được tất cả.
Lời
Chúa hôm nay là một lời nhắc nhở Hội Thánh: Truyền thống, luật lệ và nghi thức
là điều cần thiết, nhưng không được quên điều cốt tủy của luật Chúa là yêu
thương. Tôn kính Thiên Chúa qua phụng vụ là điều phải làm, nhưng phải đặt trái
tim và cuộc sống mình trong đó.
Chúng ta vẫn có thể lẫn lộn cái chính
với cái phụ.
"Xin mọi người nghe tôi nói đây
và hiểu cho rõ"
(c.14).
Đó
là lời Đức Giêsu nhắn nhủ đám đông ngày xưa và chúng ta hôm nay.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có
khi nào bạn làm một cuộc hành trình vào trái tim của bạn chưa? Bạn thường thấy
trái tim của bạn thích những điều gì và sợ những điều gì? Có điều gì sâu kín
nơi trái tim mà bạn muốn chia sẻ không?
Hiện
nay có những hàng rào hay bức tường nào còn ngăn không cho bạn đến với mọi
người?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, xin dẫn con vào nhà của con, căn nhà của trái tim, căn nhà vừa quen
vừa lạ.
Xin
hãy cho con thấy những phức tạp, rắc rối, những che đậy, giằng co, những mâu
thuẫn và vô lý nơi con. Xin hãy cho con thấy những nhỏ mọn, ích kỷ, những yếu
đuối, khô khan, những cứng cỏi và tự ái nơi con.
Xin
cho con ý thức những lo âu, sợ hãi đang đè nặng làm con ngột ngạt, những nỗi
đau thầm kín khiến đời con mất vui, những vết thương không biết bao giờ lành,
những đỗ vỡ khiến lòng con khép lại.
Lạy
Chúa Giêsu, xin giúp con dọn những bề bộn nơi tim con. Xin biến đổi tim con, để
nó trở nên đơn sơ hơn, hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước
gì con nhìn mọi sự, mọi người, bằng trái tim bao dung của Chúa. Và ước gì khi đã
ra khỏi nỗi bận tâm về mình, trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn để
yêu mến mọi người. Amen.
4.
Với cả tâm tình – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Truyện thiền kể có hai nhà sư xuống
núi. Dọc đường các ngài gặp một thiếu nữ đứng bên vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn
đi qua mà không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư liền bế thiếu nữ vượt qua
vũng nước. Trở về gần đến chùa, nhà sư kia trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu
nữ như thế?” Nhà sư trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, sao anh còn
mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu
chuyện ý nhị trên đã minh họa rõ nét về hai lối sống đạo. Lối sống đạo theo
hình thức và lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động
đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn yên tâm cho
rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi
phạm luật tu hành. Ông đã hoàn toàn giữ luật theo hình thức bề ngoài mà không
xét đến nội tâm của mình.
Những
người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do Thái cũng giữ đạo theo hình thức như
thế. Họ rất trọng những lề luật theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những
hình thức bề ngoài là đủ. Theo họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo.
Đặc biệt là luật thanh sạch. Người Do Thái có nhiều cấm kỵ ô uế. Bị coi là ô uế
những người mắc bệnh phong, những người phụ nữ sau khi sinh con, người ngoại
đạo. Ai tiếp xúc với những người ô uế sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ngay cả những đồ
vật bị người ô uế động đến cũng trở thành ô uế. Ai động đến những đồ vật đã bị
ô uế cũng sẽ bị lây nhiễm ô uế. Ô uế là tội lỗi. Những người bị ô uế sẽ không
được dâng lễ vật cho Chúa. Để tránh ô uế, người Do thái luôn rửa tay, rửa bát
bên ngoài cho sạch.
Đức
Giêsu chê trách họ là giả hình. Vì họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà
không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương
tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong
tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi,
sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám xấu xa. Vì quá chú
trọng đến những luật lệ tỉ mỉ bên ngoài, họ biến đạo thành một mớ những nghi
thức trống rỗng vô hồn. Đọc kinh cho đủ bổn phận mà không cầu nguyện. Ăn chay
để giữ đúng luật hơn là để hạn chế tính mê tật xấu. Làm việc bác ái để phô trương
hơn là để chia sẻ với người anh em cơ nhỡ. Tệ hại nhất là họ giữ đạo mà không
thật lòng yêu mến Chúa. Nên hôm nay, Đức Giêsu đã nặng lời chỉ trích họ: “Dân
này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.
Những
hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết. Nhưng những hình thức bên
ngoài, muốn có giá trị, cần phải phát xuất từ tâm tình bên trong. Nội tâm con
người là nguồn mạch của mọi hành vi. Nội tâm có tốt thì hành vi mới tốt. Nội
tâm có chân thật thì hành vi mới có giá trị. Đạo Chúa không phải là hình thức.
Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức
mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không
có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phaolô dạy: “Giả như tôi có nói
được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức
mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng.
Giả như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao
siêu, hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến,
thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng
ích gì cho tôi”.
Vì
thế, khi làm việc gì, điều cần thiết là cho cử chỉ phản ánh trung thực tâm hồn.
Tất cả mọi việc làm lời nói ra bên ngoài phải phát xuất từ tâm hồn chân thực.
Nhất là phải làm sao cho mọi nghi thức tôn giáo phát nguồn từ trái tim yêu mến
chân thành. Việc từ thiện phải phát nguồn từ một tình yêu mến huynh đệ, thành
thực muốn chia sẻ. Lời cầu nguyện phải phát xuất từ một trái tim yêu mến của
người con hiếu thảo đối với Cha trên trời. Việc ăn chay phải khởi đi từ ý muốn
chế ngự các nết xấu. Nghi thức thanh tẩy phải cử hành trong tâm tình sám hối.
Có như thế, khi môi miệng đọc kinh, lòng ta mới gần gũi Chúa. Khi ăn chay, tâm
hồn ta mới tan nát vì tội lỗi. Khi làm việc bác ái, ta tránh được thói phô
trương. Khi rửa tay, tâm hồn ta mới được thanh tẩy nên trong trắng. Với tất cả
tâm tình, những nghi thức mới trở nên có hồn, thành thực. Với tất cả tâm tình,
ta mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa ta đến gần Chúa.
Lạy
Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Rửa tay hay rửa linh hồn, điều nào
quan trọng hơn?
2. Điều gì quan trọng nhất trong đạo? Làm
những việc phi thường hay là mến yêu Chúa và yêu thương anh em?
3. Bạn thường đi lễ cho đầy đủ bổn phận
hay đi lễ vì yêu mến Chúa?
4. Bạn làm việc thiện vì yêu mến người
nghèo hay vì muốn khoe khoang?
5.
Những lời kết án khắt khe hay là hy vọng.
(Suy niệm của
Camille Gagnon)
Những
câu nói hiểm hóc.
Một
số câu trích từ Kinh Thánh đôi khi gợi lên nơi chúng ta những kỷ niệm khó chịu.
Chúng ta có hai câu trong các bài đọc hôm nay. Hai câu thường dùng để nói lên
sự không nhân nhượng và đòi hỏi khắt khe về mặt tôn giáo.
Câu
thứ nhất trích từ Sách đệ nhị luật nói thế này: “Các ngươi sẽ không thêm gì vào
những gì tôi truyền cho các ngươi và các ngươi không bớt gì cả nhưng các ngươi
sẽ giữ mệnh lệnh của Chúa như tôi truyền dạy”. Khi đọc câu này, tôi nhớ đến
những cuộc tranh cãi về phụng vụ đủ loại đã xảy ra từ mười năm nay, như vụ
Lefebvre, hoặc những vụ khác, ít trầm trọng hơn, về việc thực hành những nghi
thức Thánh lễ. Tôi cũng nhớ lại những lời tâm sự đau đớn của những người bị từ
chối không cho xưng tội. Có thể nào một lời Tin Mừng, một lời giải phóng, được
nói nhân danh Thiên Chúa, lại gây ra điều trái ngược không?
Câu
thứ hai trích từ Tin Mừng, nói thế này: “Các ông bỏ giới răn của Thiên Chúa để
theo truyền thống của loài người”.
Gần
đây một được cháu gái, được rửa tội lại “trong Giáo Hội Tin Lành”, đã dùng câu
này mà nói với tôi. Những cặp vợ chồng ly dị và tái giá, cũng đã cho tôi thấy
nỗi đau đớn của họ trước sự nghiêm khắc của luật Giáo Hội về việc rước lễ. Tôi
cũng nghe người trẻ nói như thế nữa; Sau khi đã sống đức tin Kitô thực sự, họ
đã thấy mình không thể theo Giáo Hội và những tập tục của Giáo Hội nữa.
Mỗi
người theo cách của mình mà hiểu về ý nghĩa của “giới răn Thiên Chúa” và
“truyền thống của loài người” và tìm cách biện minh cho tư tưởng hoặc hành động
của mình. Dù tỏ ra không nhân nhượng nữa. Vậy nên tôi xin nhắc lại câu hỏi này:
chúng ta có một Tin Mừng giải phóng không? Làm sao lắng nghe những câu hiểm hóc
này mà vẫn duy trì được niềm hy vọng của chúng ta.
Những
lời hy vọng.
Ta
hãy tìm cách đọc lại tường thuật cuộc gặp gỡ giữa những người biệt pháivà Chúa
Giêsu, mà không kết án ai cả, không ra vạ tuyệt thông cho ai cả. Chúng ta cũng
tìm cách kiểm tra xem Chúa Giêsu có nói lời nào không bao dung đối với con
người chăng?
Chúng
ta hãy nhìn xem quang cảnh này. Mọi người có mặt tại đó, xung quanh một bàn ăn.
Chúng ta đừng biến những cuộc trao đổi, dù gay gắt đi nữa, thành những lời buộc
tội của tòa án. Rồi chúng ta hãy xem có những ai ở đó. Chúa Giêsu, các môn đệ
của Ngài, những người biệt phái và ký lục “từ Giêrusalem đến”. “Từ Giêrusalem
đến” nghĩa là gì? Nghĩa là họ là những đại diện cho quyền bính chính thức, họ
đến tranh luận với Chúa Giêsu và bắt lỗi Ngài? Và nếu họ cũng là những người đơn
sơ, chân thành nhưng lo lắng thì sao? Là những người mộ đạo ngạc nhiên vì thấy
những người thuộc cộng đoàn của họ, thuộc niềm tin của họ, quên đi những nghi
lễ và tập tục văn hóa truyền thống thì sao? Theo quan điểm này thì họ sẽ không
khác chúng ta lắm, phải không? Hơn nữa, họ đã đi cả một đoạn đường dài để gặp
Chúa Giêsu. Vậy Ngài có xua đuổi họ bằng một lời kết án dứt khoát không? Hay
Ngài có tìm cách giải phóng họ và nói với họ một lời hy vọng không?
Bây
giờ chúng ta hãy lắng nghe lời Chúa Giêsu nói với tất cả mọi người, biệt phái,
môn đệ, quần chúng, trong đó có chúng ta nữa. Với những người muốn trung thành
chu toàn giới răn của Thiên Chúa, không thêm không bớt gì cả, Chúa Giêsu nhắc
lại rằng đối với Thiên Chúa, giới răn nhắm vào thâm tâm con người. Sự thật của
con tim bao giờ cũng hơn những việc tế tự. Và những việc này không bao giờ thay
thế được cho một con tim dối trá và mù quáng cả. Không được thêm gì vào lòng
con người cũng không được rút bớt gì cả. Không rút bớt gì trong những nỗi yếu
hèn của họ, không thêm gì vào sự phức tạp cũng như mặc cảm tội lỗi của họ. Đây
là lời giải phóng và hy vọng: không ai kết án bạn cả, không phải lòng tôi,
không phải lòng bạn, cũng không phải lòng kẻ khác. Không có luật nào thay thế
được luật của con tim. Điều này có giá trị đối với hết thảy mọi người.
6.
Bên trong là những gì đáng kể.
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” - Charles E. Miller).
Vào một buổi chiều nơi sân bóng rổ,
một đám đông đã đứng lên để hát bài quốc ca, một đứa trẻ đã không bỏ mũ của
mình ra. Một người đàn ông vạm vỡ đứng ngay đằng sau đứa bé đã nói: “Này chú
bé, hãy lấy mũ ra chứ”. Cha của đứa bé là một người có bộ râu rậm nhưng ông đã
chờ đợi cho đến khi kết thúc bài hát, cố gắng với sự tự chủ và giọng run run,
ông nói một cách nhỏ nhẹ với người đàn ông: “Con trai của tôi đang hóa trị vì
bệnh ung thư và nó không còn chút tóc nào!”.
Đứa
trẻ đã không kính trọng trong khi hát bài quốc ca, đơn giản vì em lúng túng khi
bỏ mũ của mình ra. Người đàn ông vạm vỡ có thể rút ra môt bài học: bên ngoài
thì không luôn luôn cho thấy những gì ở bên trong. Đó cũng là bài học đối với
những người Pharisêu khi nghe bài Phúc Âm trong Thánh Lễ chúa nhật hôm nay.
Họ
đã bực bội với các môn đệ của Chúa Giêsu bởi vì các người này đã không theo tục
lệ rửa tay trước khi ăn, những điều họ quan tâm không phải là những điều vệ
sinh nhưng là tính cách cứng nhắc giữ luật theo từng chữ.
Khi
những người Pharisêu đòi hỏi Chúa Giêsu vì sao môn đồ của Ngài lại không thực
hiện như họ đã làm. Chúa Giêsu đã từ chối trả lời, thay vào đó Ngài đã cảnh cáo
họ bằng những lời của tiên tri Isaia: “Dân này thờ Ta chỉ bằng môi bằng miệng
còn lòng dạ chúng thì xa Ta”. Ngài đã tiếp tục cắt nghĩa những gì ở bên trong
thì quan trọng hơn những công việc bên ngoài, tâm tình bên trong thì quan trọng
hơn công việc ở bên ngoài
Như
một dân tộc của phụng vụ, chúng ta cần phải suy niệm giáo huấn về Chúa Giêsu.
Phụng vụ là một vấn đề của sự kiện liên quan đến những điều kiện bên ngoài, ví
dụ như những cử chỉ đứng, ngồi, quỳ, tiến lên, hát và đọc kinh, cũng tốt giống
như khăn bàn thờ, nến, những vật trang trí khác. Thật ra, Giáo Hội đã dạy trong
Hiến chế về phụng vụ rất đầy đủ về hoạt động và tham dự có ý thức trong những
nghi thức phụng vụ thánh, là nguồn mạch không thể thay thế của tinh thần Kitô
giáo đích thật, và cũng như Hiến chế làm rõ ràng việc tham dự phải được hoàn
thành bằng cách tuyên xưng, đáp trả, hát Thánh Vịnh và các bài thánh ca, cũng
như là bằng các hoạt động, cử chỉ và thái độ của thân xác (14-30).
Yếu
tố chính yếu của việc thờ lạy như Đức Giáo Hoàng Piô XII đã dạy đó là bên
trong, điều đó có nghĩa là những gì chúng ta làm bên ngoài thì không có dự định
diễn tả nhưng để tăng tình trạng chân thành bên trong, như đức tin, đức cậy và
tình yêu của chúng ta. Đôi khi việc đo lường sự sốt sắng của chúng ta tốt nhất
không phải là những gì chúng ta làm trong Thánh Lễ nhưng là chúng ta đã hành
động bên ngoài Thánh Lễ thế nào.
Có
phải đức tin chúng ta diễn tả theo phụng vụ là quy tắc hướng dẫn chúng ta sống
theo cách mà nếu Thiên Chúa không hiện diện trong đời sống của chúng ta thì
chúng ta sẽ không có những tâm tình như thế? Có phải đức tin của chúng ta làm
cho chúng ta khác với những người khác, mà giá trị của họ là thế tục hoặc vật
chất? Có phải nhân đức trông cậy chiếu sáng vẻ bên ngoài của chúng ta và làm
cho chúng ta cơ bản thành những người lạc quan không? Có phải niềm trông cậy
của chúng ta đã cho chúng ta một niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thúc đẩy
chúng ta trân trọng ý muốn của Ngài không? Có phải tình yêu mà chúng ta diễn tả
với Thiên Chúa trong lúc chúng ta thờ phượng đã hướng dẫn một cách trực tiếp
trong đời sống của chúng ta? Có phải đời sống của chúng ta đã phản ảnh chân lý
mà chúng ta đã được dạy dỗ là tất cả anh chị em của chúng ta nên một trong Đức
Kitô không?
Bên
ngoài thì quan trọng nhưng chính chúng không làm cho chúng ta nên thánh hơn là
những người yêu nước, đã kiên bền cố gắng trở nên một công dân tốt. Ngày hôm
nay thánh Giacôbê đã nói với chúng ta: “Hãy tiếp nhận những lời mà những lời đó
có sức mạnh để cứu thoát anh em. Hãy thực hành những lời đó. Nếu tất cả những
gì anh em thực hiện là lắng nghe thì anh em đã tự lường gạt chính mình”. Đó là
con đường của người nói rằng, việc thờ lạy phải dẫn đến đời sống, những việc
bên ngoài phải diễn tả sự chân thành kính trọng của tình trạng bên trong. Những
gì bên trong của chúng ta mới đáng kể.
7.
Chưa hết biệt phái.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ –
Achille Degeest).
Đoạn
Phúc âm của thánh Marcô cho thấy sự tuân giữ lề luật đã đưa những người Biệt
phái rẽ vào một khuynh hướng rút cục là giả đạo đức như thế nào. Trách cứ họ
theo lối vơ đũa cả nắm là bất công, là quá đáng nếu so sánh với sự quở mắng của
Đức Giêsu khi Người xét đoán họ. Dù sao họ cũng từng đóng vai bảo tồn lòng
trung thành với Thiên Chúa trong những thời buổi khó khăn. Chúng ta nhắc lại
rằng giới Biệt phái đã cung cấp cho nhóm môn đệ Chúa mấy người, đáng kể là
Nicôđêmô và thánh Phaolô. Nhưng bất hạnh thay cho đại đa số Biệt phái, nhất là
cho tầng lớp Biệt phái trí thức, họ quá chú trọng đến việc tuân giữ Lề luật về
phương diện vật chất và giải nghĩa Lề luật về phương diện vật chất và giải
nghĩa Lề luật theo quan niệm con người – hơn là tôn trọng tình thần Lề luật, đề
cao việc thờ phụng và tình thương. Chúa Giêsu không chấp nhận lối giữ đạo bề
ngoài theo tập tục thế gian, vì nó không phù hợp với những đòi hỏi của một tâm
hướng về thờ phụng Thiên Chúa, thật lòng yêu tha nhân và thành tâm gắn bó với
Lời Chúa. Cầu nguyện, cử chỉ, cách đứng ngồi, tất cả phải biểu thị một thái độ
nội tâm thành khấn. Trái lại là giả hình.
Đàng
khác, Chúa Giêsu lên án kẻ Biệt phái nào xem ý kiến những luật sĩ giải thích
Kinh thánh trọng ngang với Lề luật. Thậm chí, Người không chịu được thái độ tự
kiêu tự mãn của họ. Thật vậy, họ tự cho mình là am tường Lề luật, rồi sinh ra
kinh miệt kẻ tầm thường, kẻ hèn kém. Ta có thể trên quan điểm này tự đặt vài
câu hỏi về xã hội ngày nay. Trong một số hội đồng, ủy ban nào đó, trong phần
lớn giới báo chí chẳng có những ký lục và Biệt phái rất tự tín, rất vững tâm
khi họ giải thích Phúc âm, muốn độc quyền hướng dẫn dư luận sao? Ngày nay đang
có một sự uốn nắn đích thật đó là sự biệt phái tái xuất hiện dưới bộ áo mới, sự
giả nhân giả nghĩa mà Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án.
1) Do đâu mà có những khuynh hướng
biệt phái bị Chúa tố giác?
Các
ông đã gạt giới luật của Thiên Chúa sang một bên, để cố thủ lấy tập tục. Biệt
phái phát sinh từ một tham vọng của kẻ vô tình hay hữu ý, muốn tự đặt ra lề
luật cho mình. Khi nào con người vi phạm luật Chúa, y trở thành một kẻ tội lỗi
giản dị thế thôi. Khi nào con người tuyên bố chấp nhận luật Phúc âm nhưng lại
bẻ cong Phúc âm theo lối suy tưởng của y, lúc đó y trở thành Biệt phái. Tính
biệt phái đặt cơ sở trên một vận dụng trí thức giải nghĩa Phúc âm qua bảng giải
mật mã của một ý thức hệ con người. Kitô hữu biệt phái là kẻ tự đặt mình làm
nhà lập pháp cho mình, bằng cách mượn những từ ngữ Phúc âm. Y đặt lấy một pháp
điển mượn ý của một hệ ý thức con người, dù cho hệ này đại lượng đến mức nào đi
nữa. Từ một thứ phúc âm trống rỗng vì bị lấy đi Đức Kitô sống động, và thật, y
trích ra những từ, những câu, những đoạn giảng huấn, để cố che đậy một sự giả
hình đích thật.
2) Tính biệt phái là một sự uế tạp cực
độ.
Sau
khi lên án những kẻ biệt phái, Chúa Giêsu giảng về điều nó làm cho con người ra
uế tạp trước mặt Thiên Chúa. Đó là những tình cảm xấu xa nuôi dưỡng trong lòng.
Chúa kể ra 1 số tình cảm trong đó có kiêu ngạo và phi lý. Vậy mà có tội kiêu
ngạo nào độc hại hơn tội phi lý nào bại hoại hơn tội của kẻ gác sang một bên
giới luật Thiên Chúa, để tự đặt ra những giới luật riêng cho mình? Chúa Giêsu
gạch nối xếp thái độ đó vào tội ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Vậy
ai là kẻ có lòng thanh sạch? Thưa đó là những tâm hồn đơn sơ, họ thấy Thiên
Chúa thế nào thì nghênh đón Người như vậy, họ giãi bầy nỗi niềm riêng tư với
Chúa bằng một tấm lòng ngay thẳng thực tế.
8.
Rửa tay hay rửa tâm hồn?
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Nhà Thần học William Barclay kể lại
câu chuyện: Một Kinh sư Do Thái (Rabbi) bị cầm tù ở Rôma. Trong tù, ông chỉ
được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua, vị
Kinh sư ấy ngày càng yếu dần. Cuốc cùng người ta buộc phải mời bác sĩ đến khám
bệnh. Bác sĩ bảo rằng cơ thể tù nhân bị thiếu nước. Họ không hiểu nổi tại sao
vị Kinh sư ấy lại có thể thiếu nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối
thiểu nhưng vẫn tương đối đủ chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý
quan sát người tù này một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số
lượng nước ấy. Cuối cùng người ta đã khám phá ra bí mật: Vị Kinh sư Do Thái này
đã sử dụng phần lớn số lượng nước để rửa tay theo nghi thức Do Thái giáo trước
khi ăn và cầu nguyện. Như thế đương nhiên ông ta không còn đủ nước để uống.
Anh
chị em thân mến, câu chuyện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn thái độ bực bội của
những người Biệt Phái Pharisêu và Kinh sư Do Thái đối với Chúa Giêsu và các môn
đệ của Ngài khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay
theo đúng nghi thức. Rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, đó là điều sơ đẳng trong
phép giữ vệ sinh phòng bệnh. Người Do Thái và nhất là người Biệt Phái Pharisêu
giữ tập tục rửa tay trước khi ăn rất kỹ. Họ không dùng bữa, nếu chưa rửa tay
trước. Ở nơi công cộng về, họ không ngồi và bàn ăn nếu chưa tắm rửa sạch sẽ. Họ
còn giữ nhiều tập tục tẩy rửa này, đối với họ, không nhằm giữ vệ sinh, bảo vệ sức
khoẻ, mà được coi là những nghi thức tôn giáo và nhằm để phân loại con người
trong sạch hay do bẩn theo luật. Lòng đạo đức của con người được đánh giá tuỳ
thuộc và việc tuân giữ các tập tục này, đều bị kể là hạng người dơ bẩn, bị loại
ra ngoài cộng đoàn tôn giáo, mất quyền tham dự nghi lễ phụng tự trong đền thờ.
Họ còn để mắt dòm ngó xem xét người khác có tuân giữ các tập tục đó không.
Trong Tin Mừng hôm nay, họ đã thấy một số môn đệ của Chúa Giêsu không rửa tay
trước khi ăn. Điều này đã nên cớ cho người Biệt Phái và Kinh sư hạch sách Chúa
Giêsu và lên án Ngài.
Đáp
lại, Chúa Giêsu đã vạch trần tâm địa của người Biệt Phái và Kinh sư; Ngài đã
phơi bày cho thấy cái họ cho là đạo đức chỉ là một thứ giả hình. Họ tôn thờ
Thiên Chúa một cách giả dối ngoài môi miệng nhưng lòng họ thì chẳng tôn thờ
Ngài, chẳng màng tuân giữ các giới răn của Ngài. Nhân dịp này, Chúa mở ra cho
người ta thấy cái làm cho người ta ra dơ bẩn và bất xứng trước Thiên Chúa không
phải ở chỗ rửa tay hay không rửa tay trước khi ăn, mà chính là ở tâm địa xấu xa
của con người, chính là những tư tưởng xấu, “từ đó phát xuất những hành động
ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, vu
khống, kiêu căng…” Qua đó, Chúa Giêsu muốn nói rằng: sự dơ bẩn bên ngoài không
làm cho tâm hồn ra dơ bẩn, không tác hại và đáng lo cho bằng sự dơ bẩn trong
tâm hồn do những ý muốn xấu xa, độc ác. Vậy thì việc tẩy rửa bên ngoài không
quan trọng bằng việc tẩy rửa bên trong, bằng việc thanh tẩy tâm hồn, hoán cải
cuộc sống. Sự trong sạch của tâm hồn quan trọng và cần thiết hơn sự sạch sẽ bên
ngoài của thể xác. Tập tục tẩy rửa bên ngoài không tẩy xoá được sự dơ bẩn trong
tâm hồn, chỉ có việc tuân giữ luật Chúa mới thúc đẩy con người sám hối tội lỗi
để được tẩy rửa trong sạch, xứng đáng trước mặt Chúa. Do đó cần phải tuân giữ
luật Chúa hơn những tập tục của con người.
Nhà thần học William Barclay còn kể
thêm một câu chuyện về một người Hồi Giáo đang đuổi theo để giết kẻ thù của
mình. Đang khi đuổi theo kẻ thù, chợt nghe vang lên hồi chuông báo giờ cầu
nguyện, lập tức người Hồi Giáo nhẩy ngay xuống ngựa, mở sách Thánh Kinh Coran
ra, quì xuống và cầu kinh theo như luật định một cách hết sức lẹ làng. Cầu kinh
xong, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục đuổi theo kẻ thù. Câu chuyện này minh hoạ cho chúng ta
chủ nghĩa câu nệ lề luận. Nó cảnh các chúng ta đừng rơi vào chủ nghĩa đồng hoá
tôn giáo với việc chu toàn những hành vi đạo đức bên ngoài.
Chúa
Giêsu đã đảo ngược hoàn toàn cái gọi là tôn giáo của người Biệt Phái và Kinh sư
Do Thái. Đạo không phải là thi hành những tập tục, tuân giữ các nghi thức, mà
chính là một thái độ sống, là thi hành luật Chúa, là sống Lời Chúa. Cái cám dỗ
thường xuyên của người Kitô hữu vẫn là lấy việc đạo đức bề ngoài là bức màn che
đậy tính ích kỷ, giả dối, độc ác, gian tham, trốn tránh nhiệm vụ của mình trong
gia đình, ngoài xã hội, thích được mang đanh hiệu là tín hữu hơn là sống đúng
theo Tin Mừng của Chúa Kitô; mượn việc đi nhà thờ, đọc kinh, dự lễ để trốn
tránh bổn phận bác ái, phục vụ người khác; làm ra vẻ hăng hái, nhiệt thành để
được tiếng khen; chà đạp người khác để nâng mình lên… Nói chung là lấy những
hình thức bên ngoài để thay thế cho nhiệm vụ đích thực của người Kitô hữu là
thi hành luật tình yêu của Chúa: sống công bằng, bác ái, phục vụ, trong sạch,
hiền lành, hoà thuận. Đó là kết quả có lòng yêu mến chân thành. Điều cốt yếu là
phải có lòng yêu mến chân thành bên trong chứ không phải hình thức giả dối bên
ngoài. Con người chỉ nhìn thấy bên ngoài, còn Chúa thấu suốt tận tâm can. Chính
tình yêu bên trong sẽ làm cho mọi việc bên ngoài có giá trị đích thực. Thiếu
tình yêu bên trong, mọi việc bên ngoài chỉ là bôi bác, giả dối.
Chúa
Giêsu có lần mượn hình ảnh những mồ mả
quét vôi trắng tinh để nói cho những người Biệt Phái hiểu: cái lối đạo đức
giả của họ trong thể che đậy được tội lỗi của họ. Mồ mả dù có quét vôi trắng
tinh, sạch sẽ đến đâu cũng không làm cho ai quên được cái thây ma thối tha bên
dưới (x. Mt 23,27-32). Chúa còn nói thẳng với họ: “Không phải môi miệng cứ lâm
râm lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là phải làm theo ý Cha trên trời”.
Chính việc làm theo ý Chúa Cha mới được vào Nước Trời chứ không phải việc tôn
thờ giả dối ngoài môi miệng: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, còn lòng trí
chúng lại xa cách Ta”.
Thưa
anh chị em, để áp dụng cụ thể, Thánh Giacôbê Tông Đồ hôm nay kêu gọi chúng ta
hãy thực thi luật yêu thương của Chúa bằng việc phục vụ những người nghèo khó,
nhất là những cô nhi, quả phụ. Bởi vì họ phải chịu nhiều thiệt thòi bất công và
ít được nâng đỡ, bênh vực hơn những người khác. Thánh Giacôbê cũng mời gọi
chúng ta phải xa tránh “tinh thần thế tục” vì đó là điều kiện cần thiết để sống
chúng ta được “trong sạch, không tì vết”: “Lòng đạo đức tinh tuyền và không chê
trách được trước mặt Thiên Chúa Cha, đó là thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cơn cùng
khốn và giữ mình cho khỏi vết nhơ của thế gian”.
Anh
chị em thân mến,
Người
Kitô hữu đích thực là người có lòng tin, đồng thời có những việc làm cụ thể để
diễn tả lòng tin của mình. Trức mặt Chúa, cách chưng diện, thời trang, không
quan trọng bằng tâm hồn trong trắng, đầy tình yêu mến và thể hiện trong nếp
sống yêu thương, phục vụ anh em, đặc biệt là những người cô thế cô thân. Nếu
rửa tay sạch trước khi ăn là vấn đề vệ sinh thưởng thức của cuộc sống con
người, thì tẩy rửa tâm hồn trong sạch trước khi dự Tiệc Thánh Thể là điều kiện
cần thiết của con cái Chúa để xứng đáng tiếp rước Ngài.
9.
Cái nào quan trọng – Gm. Arthur Tone.
Khoảng 2 giờ, một buổi sáng lạnh và
gió lớn, chuông điện thoại nhà xứ reo, có tiếng hốt hoảng la lên: “Tôi tưởng
ông ngoại qua đời”. Vì chỉ cách 2 căn phố. Cha Murray đi bách bộ, khi ngài qua
một ngõ hẻm, chợt xuất hiện một bóng hình cầm cây súng bước tới truyền lệnh:
“Đưa tiền đây!”. Vị linh mục nói với người cầm súng: “Ví của tôi để ở trong túi
áo khoác”. Khi ngài mở nút áo khoác để lấy ví, để lộ chiếc cổ áo Roma. Kẻ cướp
ấp úng: “Ôi con không biết cha là linh mục, con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Bình
tĩnh lại vị linh mục đưa cho y một điếu thuốc xì gà, nhưng y lắc đầu: “Không,
cám ơn cha, trong mùa chay con không hút thuốc”.
Kẻ
cướp đường đã hành động như một người Biệt phái. Người Biệt phái giữ hết sức
chi tiết những điều lệ nhỏ nhặt của luật Do Thái, trong khi đó lại bỏ bê những
giới răn quan trọng. Đó là lý do Đức Kitô khiển trách họ. Họ ghét Chúa Giêsu vì
Người đe dọa địa vị của họ, như những người lãnh đạo tôn giáo. Họ dò xét Chúa,
cố gắng bắt bẻ Người trong lời nói. Họ chỉ trích Người đã hòa mình với người
thu thuế và tội lỗi. Người đã bỏ qua lệ rửa tay chân như trong bài Tin Mừng hôm
nay. Họ nói Chúa Giêsu không thể tha tội. Người dùng quyền lực của quỷ mà trừ
quỷ. Họ làm điều lành chỉ cốt cho người ta thấy.
Ngày
nay còn người Biệt phái không? Bất hạnh thay, vẫn còn. Đây là một vài kiểu Biệt
phái tân thời: Những người Công giáo lẫn lộn những cái không quan trọng với cái
thật sự quan trọng.
Giả
sử tôi nói với một người nào đến trễ lễ: “Bạn bất lịch sự”. Chắc người ấy cho
rằng bị xỉ nhục. Nhưng vì lỗi mình, đến lễ trễ, là một sự xúc phạm đến Chúa,
làm lo ra những người trong nhà thờ và cho vị chủ lễ. Có người mỉm cười với bất
kỳ ai gặp trong nhà thờ, dĩ nhiên điều đó tốt. Nhưng họ không nói một lời với
Chúa trên bàn thờ cũng như đi dự đại tiệc, chỉ nói chuyện với mọi người, trừ
ông chủ tiệc. Cái nào quan trọng?
- Có những người Công giáo và những
người khác nữa, họ không nghĩ rằng họ sẽ tổ chức hay dự một bữa tiệc nêu có một
vết nhơ trên bàn, hay trên dĩa hoặc trên quần áo của họ. Nhưng ngôn ngữ của họ
không phải chỉ có vết nhơ, mà nó thật sự thô bỉ, một sự thô bỉ bên trong hơn là
bên ngoài như Chúa Giêsu đã chỉ rõ trong bài Tin Mừng hôm nay.
- Có người trong chúng ta ra ngoài thì
hoang phí, rộng rãi với anh bồi ở quán rượu, hào phóng với cô chaỵ bàn; nhưng
lại rất keo kiệt với người thân thương, và với Chúa.
Nhiều người không bao giờ quên câu
nói: “Xin vui lòng, cám ơn, xin lỗi”, khi ở ngoài gia đình. Nhưng giữa những
người thân yêu, ít khi bạn nghe được những từ quan trọng ấy. Bạn có thể nghĩ
đến những hoàn cảnh, trong đó bạn phải sạch sẽ, lịch sự, hào hiệp, chỉ khi nào
những hoàn cảnh đó được trình diễn trước mặt mọi người, để đạt được tín nhiệm
hoặc tránh khỏi phê bình. Hãy cố gắng đừng làm Biệt phái.
Cám
ơn Chúa vì phần lớn những người chân thành, họ đặt người khác và sự vật vào
đúng vị trí trật tự của nó. Như đặt Thánh Lễ lên đầu bảng danh sách những việc
quan trọng.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
10.
Phải thờ Chúa trong tâm hồn – Noel Quesson.
Cha Murray (Muy-rây) lủi thủi đi trên
phố vắng đêm khuya, ngài đang đưa Mình Thánh cho một bệnh nhân nguy kịch. Tới
góc phố, chợt một tên cướp nhảy ra chĩa súng quát: “Đứng lại, đưa tiền đây!”.
Cha Murray mở áo khoác, lấy ví tiền. Tên cướp ngó thấy ngài mặc áo đen và mang
cổ trắng, nhận ra đó là một linh mục, hắn ấp úng nói: “Thưa cha, con không
biết. Con xin lỗi, cha cất tiền đi”. Cha Murray bình tĩnh lại, ngài móc gói
thuốc mời hắn một điều. Nhưng ngài lại ngạc nhiên lần nữa nghe hắn nói: “Cám ơn
cha, bây giờ đang Mùa Chay, con không hút thuốc”.
Có
những người coi việc giữ luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn mình là
không đáng kể. Họ thấy cần thiết phải giữ chay, còn có đi ăn trộm, ăn cướp cũng
chả sao. Đó là một sai lầm mà Chúa Giêsu luôn tìm cách sửa đổi. Có thể coi đây
là một trong những khác biệt giữa tâm tình giữ đạo của các Biệt phái và nhóm
môn đệ sống theo Lời Chúa. Các Biệt phái nghiêm chỉnh giữ luật tắm rửa, lau
chùi, rửa bình… không phải vì lý do vệ sinh, nhưng là nghi lễ thanh tẩy. Họ khó
chịu, chê trách Chúa và các môn đệ vì không tuân giữ luật cũ. Dù nhóm môn đệ
rất nhiệt thành giữ đạo, nhưng đôi khi trong nếp sống cũng bị nhiễm lây một vài
thói tục mà người Biệt phái cho là phóng túng. Chúa Giêsu coi những chuyện này
là không quan trọng. Chủ yếu là do cõi lòng. Chúa luôn bảo vệ, bênh vực những
kẻ mà nhóm bảo thủ cho là người xấu, người tội lỗi, những người thu thuế, các
cô gái điếm. Chúa tỏ lòng nhân từ và khoan dung với người nghèo khó, bé mọn…
nhất là khi những người này bị xét đoán gắt gay.
Một
lý do khác nữa là Chúa Giêsu nghĩ tới một Giáo Hội phổ quát chứ không đóng
khung trong dân tộc Do Thái. Những phong tục, tập quán của Do Thái là tốt,
nhưng đến lúc phải mở rộng hơn để đón nhận mọi nếp sống, mọi nền văn minh trên
toàn thế giới. Vậy phải sàng sảy, chọn lọc, chỉ giữ lại những gì cốt yếu và coi
nhẹ những điểm phụ thuộc. Chúa bảo có một số cổ lệ không do Thiên Chúa mà chỉ
do con người. Những cổ lệ đó cần đổi thay, điều chỉnh cho sáng tỏ tinh thần tôn
kính Thiên Chúa và chu toàn bác ái đối với anh em. Nếu không sẽ chỉ đáng nghe
lời quở trách của ngôn sứ Isai: “Dân này tôn thờ ta ngoài môi miệng mà lòng trí
ở xa Ta”.
Phải
làm sao cho sáng tỏ tinh thần, không bị lu mờ che khuất vì nếp sống bên ngoài.
Phải làm sao cho mọi người, tín đồ cũng như người chưa tin, thấy điều quan
trọng là ở tâm tình, chứ không ở luật lệ, hay lễ nghi thờ tự. Những điều này
chỉ có giá trị nếu làm nổi bật tinh thần bên trong, là việc mến Chúa, yêu người.
Lạy
Chúa, xin thanh tẩy chúng con để chúng con biết tôn trọng tinh thần hơn tục lệ,
biết nhìn anh em theo hướng nhìn cởi mở của Chúa.
11.
Cõi lòng.
Trong
cuộc sống thường ngày, đối với người Tây Phương thì con tim, còn đối với người
Đông Phương chúng ta, thì cõi lòng là yếu tố quan trọng cho mọi hoạt động của
chúng ta. Vì thế, chúng ta thường nói:
- Thèm
lòng chứ không thèm thịt. Hay của ít lòng nhiều.
Cho
dù chúng ta có làm được những việc tốt lành, mà nếu không có sự góp phần của
con tim, của cõi lòng, thì chúng ta cũng chỉ là những kẻ bôi bác, giả hình và
dối gạt mà thôi.
Ca
dao tục ngữ đã diễn tả về hạng người này như sau:
Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Miệng thì thơn thớt nói cười,
Mà trong nham hiểm giết người không
gươm.
Chính
vì thế mà chúng ta cần phải đề cao cảnh giác đối với hạng người nham hiểm này.
Trong
Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cũng có những ý nghĩ như vậy. Ngài coi cái
tâm, cái lòng là yếu tố chi phối mọi việc làm của chúng ta, như chúng ta thường
bảo:
- Tư tưởng
thì hướng dẫn hành động.
Hay
như Chúa đã phán dạy:
- Lòng đầy
thì mới tràn ra ngoài.
Chính
vì thế, rất nhiều lần Ngài đã lên tiếng phê bình chỉ trích thói giả hình của
bọn Biệt phái và luật sĩ. Bởi vì, họ chỉ có cái vỏ bên ngoài, còn bên trong thì
lại rỗng tuếch, thiếu vắng cái tâm, cái lòng.
Họ
giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi trắng xóa, nhưng bên trong thì lại đầy
dòi bọ và xú khí. Họ chuộng hình thức bề ngoài, nhưng lại chẳng có tinh thần
bên trong. Chẳng hạn, qua đoạn Tin Mừng hôm nay, họ cẩn thận rửa tay trước khi
ăn, nhưng tâm hồn họ thì lại bị hoen ố bởi gian tham và tội ác, khiến Chúa đã
phải mượn lời tiên tri Isaia mà nói về họ:
-
Dân
này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Rồi
Ngài còn xác quyết chính yếu tố bên trong mới là yếu tố quyết định tính cách
tốt hay xấu của một hành động:
-
Bởi
vì từ bên trong từ cõi lòng xuất phát ra những ý định xấu như tà dâm, trộm
cướp, giết người… Chính những điều xấu xa này, từ bên trong xuất ra và làm cho
con người trở thành ô uế.
Với
chúng ta cũng vậy. Chúa đòi hỏi nơi chúng ta tấm lòng chân thành khiêm cung,
như lời Ngài đã phán:
- Ta muốn
lòng nhân lành chứ không muốn lễ vật.
Nơi
khác, Ngài cũng bảo:
- Lòng sám
hối khiêm cung Chúa chẳng khinh chê.
Và
hơn thế nữa, chính tình yêu xuất phát từ cõi lòng, từ con tim sẽ làm cho những
việc làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta có được một giá trị to lớn và cao cả
trước mặt Chúa.
Bởi
vì, tình yêu xuất phát từ bên trong sẽ là như chiếc đũa thần, biến những việc
làm nhỏ bé tầm thường của chúng ta trở thành những sợi chỉ vàng, dệt nên tấm
vải cuộc đời chúng ta.
12.
Bề ngoài.
Trong xã hội ngày nay, chúng ta thấy
có một sức quyến rũ mạnh mẽ về những cái mã bề ngoài. Các dịch vụ quảng cáo
thương mại nhấn mạnh đến những sản phẩm làm cho người ta ngày càng đẹp hơn, có
làn da trắng hơn, có mái tóc mượt hơn hay làm cho người ta trở nên hấp dẫn hơn
với người khác phái. Người ta muốn tỏ ra mình là người xinh đẹp, lôi cuốn và
hợp thời trang.
Nhưng
bạn hãy tưởng tượng nếu bạn có thể dùng một phương tiện chẳng hạn như tia X, để
nhìn thấu linh hồn của mỗi người và mọi người. Bạn có thể nhìn thấy bạn bè,
những người thân quen, cùng với tất cả những tham vọng thầm kín, những khao
khát, những ước mơ, những ý hướng, những tình cảm, những kế hoạch, những tư
tưởng thầm kín. Người ta có thể chắc chắn với bạn rằng bạn sẽ bị sốc kinh khủng
về những người bạn đã quen biết. Lúc ấy, bạn sẽ thấy những người bề ngoài xem
ra rất hấp dẫn lại chứa đầy trong lòng sự thù hận, không tha thứ, tự kiêu, ích
kỷ và những thứ khác đáng phải lánh xa. Bởi vì họ nghèo nàn hơn, thiếu giáo dục
hơn, tồi tệ hơn so với vẻ bên ngoài đẹp đẽ, quyến rũ và trong sáng. Bây giờ bạn
hãy rọi tia X vào chính con người của bạn. Bạn thấy những gì? Bạn có thích thú
với những gì bạn xem thấy hay không? Bạn có thấy mình hấp dẫn không? Đây là
điều quan trọng. Bởi vì Thiên Chúa luôn luôn nhìn thấu suốt cõi lòng của bạn.
Và đến ngày bạn chết, bạn sẽ chịu phán xét theo những gì mà chúng ta thấy với
tia X như thế.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cho con nhìn nhìn thấy bản thân mình như Chúa vẫn nhìn thấy
con.
13.
Giáp mặt.
Có một cuộc triển lãm lấy tên là “Hàng
thật hàng giả”. Cuộc triển lãm này nhằm giới thiệu bộ mặt hàng hóa trong bối
cảnh thị trường hiện nay, để nhà sản xuất và người tiêu dùng có cơ hội nắm vững
tình hình. Qui mô triển lãm không lớn, thời gian trưng bày không lâu, nhưng ý
nghĩa của nó được đánh giá không phải là nhỏ. Bởi lẽ nó gợi mở một dư luận đúng
đắn trong đạo đức kinh doanh, nhằm tẩy chay hàng giả và cổ võ hàng thật, đồng
thời góp phần hình thành một cung cách làm ăn sao cho chữ tín được tôn trọng và
bảo vệ. Nhiều tờ báo đã đánh giá cao cuộc triển lãm này, có báo cho rằng đó là
“một cuộc giáp mặt đầy lý thú”.
Bài
Tin Mừng hôm nay, dầu chẳng liên quan gì đến cuộc triển lãm, nhưng cũng diễn ra
như một cuộc giáp mặt giữa một bên là những người Pharisêu và kinh sư, còn bên
kia là Chúa Giêsu và các môn đệ, với câu hỏi mở đầu xoay quanh vấn đề “sạch và
dơ” theo luật lệ, để rồi cuối cùng trong câu trả lời mang tính cật vấn, Chúa
Giêsu đã trực tiếp tố giác một lối sống đạo đức giả hình, và qua đó gián tiếp
dạy bảo một lối sống mới trong đạo đức đích thực.Trong Tin Mừng chúng ta hay
nghe nói đến những người Pharisêu và kinh sư. Đây là những người sinh ra và lớn
lên trong bầu khí đạo giáo, có người lại được huấn luyện nâng cao để trở thành
những chuyên viên luật lệ, cuộc đời họ dường như gắn bó với luật lệ. Nếu chỉ có
thế thì chẳng có gì phải nói, nhưng đàng này, dần dần họ cấu kết với nhau thành
một nhóm nắm quyền giải thích và áp dụng luật lệ, để rồi tha hồ thao túng đến nỗi
lấn lướt cả quyền lập pháp khi họ tự ý thêm bớt đủ điều, làm cho luật lệ mất đi
dáng dấp nguyên thủy, đành lép vế dưới lớp áo truyền thống phàm nhân. Trên cơ
sở đó, Chúa Giêsu đã tố giác: “Các ông gạt bỏ điều răn Thiên Chúa mà giữ lấy
tập tục loài người”. Rồi như một hệ lụy, những người Pharisêu và kinh sư thường
xuất hiện công khai qua dáng vẻ tự phụ, cánh tay họ thò vào mọi ngõ ngách của
cuộc sống: dòm ngó, xét nét, hạch sách người khác ngay trong những điều nhỏ
nhặt như việc các môn đệ không rửa tay trước khi ăn kể lại trong Tin Mừng hôm
nay. Nhưng chính ở đây, bằng thái độ không khoan nhượng, Chúa Giêsu đã giật rơi
chiếc mặt nạ đạo đức trên khuôn mặt họ, để trần trụi ra họ chỉ là những kẻ giả
hình. Rõ trơ trẽn, xấu mà hay làm tốt. Điều làm cho người ta thành dơ bẩn không
phải ở chỗ giữ hay không giữ tập tục rửa tay trước khi ăn mà chính là tâm địa
của người ta. Đạo đâu phải là tuân giữ các tập tục và thực hành các nghi thức
mà là một thái độ sống.
Thế
là người cật vấn bây giờ trở thành kẻ bị cật vấn. Qua những người Pharisêu và
kinh sư, Chúa Giêsu tố giác một lối sống giả hình, giả dối: thể hiện bên ngoài
thì khác và trong lòng thì nghĩ khác, như tục ngữ đã nói: “Khẩu Phật tâm xà”
hay “Miệng thơn thớt dạ ớt ngâm” để diễn tả những người mang mặt nạ giả danh
tốt đẹp, bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong. Hạng người
như hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Chúng ta thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người Pharisêu
và kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn thứ gỗ bên
trong không? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ có bề
ngoài không? Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của
mình. Không những chúng ta không được giả hình, giả dối mà còn phải đấu tranh
chống lại những cái giả chung quanh nữa. Những cái giả này ngày nay xuất hiện
dưới nhiều hình thức và ở nhiều cấp độ khác nhau giữa chốn chợ đời, cụ thể nhất
là hàng giả và thuốc giả. Mỗi cái giả đều có cái giá của nó trong sự tác hại:
hàng giả gây nên “tiền mất” cho người mua sắm, thuốc giả gây thêm “tật mang”
cho kẻ tin dùng. Còn người ta, một khi đã trở thành giả, như giả nhân giả nghĩa
thì quả là một thảm họa không chỉ cho bản thân mà còn cho những người lân cận
nữa. Trong cuộc chơi, như trong bóng đá chẳng hạn, động tác giả được xem là mưu
trí, nhưng trong cuộc đời, động tác giả chỉ có thể là trò trí trá của những con
người đã đánh mất phẩm chất đạo đức nơi mình.
Cuộc
giáp mặt giữa những người Pharisêu và kinh sư với Chúa Giêsu và các môn đệ
trong Tin Mừng hôm nay nhắc nhở chúng ta liên tưởng tới những cuộc giáp mặt
khác trong cuộc đời. Quả thực, dù muốn dù không chúng ta cũng sẽ thấy, sẽ gặp,
sẽ chứng kiến những cuộc giáp mặt cụ thể và quyết liệt, như giữa hàng thật và
hàng giả, của công và của tư, phim sạch và phim đen, mặt phải và mặt trái v.v…
không có sẵn giải pháp cho từng trường hợp, nhưng vẫn có lời gọi hãy đứng về
phía chân lý và hãy sống trung thực trong bất cứ trường hợp nào.
Dĩ
nhiên sự thật tất thắng, nhưng đường đi đến sự thật là cả một cuộc đấu tranh
sinh tử một mất một còn. Phân biệt thật giả đã khó, yêu mến và thi hành sự thật
lại càng khó hơn, nó đòi hỏi lý trí và ý chí cũng như sự trợ giúp của ơn thánh.
Vì thế, lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy nhận diện lại cuộc sống đạo đức
của mình, đồng thời cũng là lời mời gọi hãy giành lấy phần thắng giữa những
cuộc giáp mặt trong đời.
14.
Giả hình.
Dân
này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng nhưng lòng họ thì xa Ta.
Cái
sai lầm lớn nhất của bọn Biệt phái và luật sĩ, theo tôi nghĩ, đó là họ đã đảo
lộn bậc thang giá trị. Lấy cái phụ làm chính và lấy cái chính làm phụ. Họ tuân
giữ những tập tục của cha ông mà quên đi giới luật của Thiên Chúa. Họ bám víu
vào những nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên trong.
Tôi
xin đưa ra những thí dụ cụ thể:
Chẳng hạn, họ thấy các môn đệ của Chúa
ngồi vào bàn mà không rửa tay. Đối với họ đó là một trọng tội không thể nào tha
thứ. Người ta kể lại rằng: một luật sĩ tên là Aquiba, thà chết khát trong tù
còn hơn là sai lỗi tập quán này. Ông đã lấy nước đổ trên tay dù rằng nước đó
rất cần cho ông để được sống.
Từ
đó chúng ta thấy họ còn là những con người hẹp hòi và thiển cận, đã quan trọng
hóa những điều nhỏ mọn. Bên ngoài họ tắm gội, giặt giũ rất là cẩn thận, nhưng
bên trong thì lại chất đầy những gian tham và tội ác, khiến cho Chúa Giêsu phải
lên tiếng cảnh cáo:
- Khốn cho các ngươi, hỡi những biệt
phái và luật sĩ giả hình, các ngươi giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp
đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ và xú khí.
Lần
khác, thấy các môn đệ bứt những bông lúa chín ở dọc đường mà ăn trong ngày
Sabbat, và họ đã lên tiếng bắt bẻ vì đã vi phạm ngày nghỉ lễ, khiến Chúa phải
đặt lại vấn đề:
-
Luật
lệ vì con người hay con người vì luật lệ. Ngày Sabbat được cứu sống hay là giết
chết?
Lòng
nhiệt thành của họ có đấy nhưng lại quá vụ về hình thức. Trong khi chú trọng
vào những chi tiết bên ngoài, họ quên mất tình yêu thương bên trong, là điều
Chúa đòi hỏi mỗi người chúng ta:
-
Các
ngươi kinh kệ dài dòng mà lại nuốt trửng gia tài của các bà góa.
Và
rồi Chúa đã chỉ trích:
-
Dân
này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.
Nhìn
vào đời sống, nhiều người trong chúng ta cũng chẳng hơn gì bọn biệt phái. Chúng
ta cũng đảo lộn bậc thang giá trị, lấy cái chính làm phụ và lấy cái phụ làm
chính. Chúng ta cũng bấu víu vào nghi thức bên ngoài mà quên đi tình mến bên
trong. Chúng ta cũng sống một cuộc sống bôi bác giả hình. Có người thì sùng bái
ảnh tượng nhưng lại coi thường sự công bằng. Có người ưa đọc kinh dài dòng
nhưng lại gian tham và hà khắc với anh em. Họ thật giống với mẫu người mà tục
ngữ đã diễn tả:
Khẩu Phật tâm xà.
Miệng nam mô bụng bồ dao găm.
Có
người thì tang ma cỗ bàn dềnh dang, cho cha mẹ, nhưng khi cha mẹ còn sống, thì
lại hắt hủi và đối xử tệ bạc:
Còn sống thì chẳng cho ăn,
Đến khi đã chết làm văn tế ruồi.
Có
người lập gia đình thì chỉ nhắm tới tiền bạc và địa vị, mà quên rằng, tình yêu
thương và tinh thần đạo đức mới là đảm bảo vững chắc cho cuộc sống lứa đôi.
Tất
cả những sự kiện trên đều do thiếu lòng yêu mến chân thành mà sinh ra. Lòng yêu
mến chân thành mới là yếu tố bên trong, mới là nền tảng vững chắc, thiếu nó thì
việc làm của chúng ta chỉ là não bạt ầm vang, thiếu nó bản thân chúng ta chỉ là
phường bôi bác giả hình. Vì thế, thánh Augustinô đã nói:
- Ama et fac quodvis. Hãy yêu rồi muốn
làm gì cũng được.
Có một ông triệu phú chết đi để lại
một gia tài to lớn. Ông sinh được một cậu con trai, nhưng cậu con này được gửi
đi du học từ bé, nên không một ai biết mặt. Vì thế, tòa án phải nhắn tin trên
báo cho cậu trở về. Đúng ngày hẹn, người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận
là con của nhà triệu phú. Viên chánh án bèn lấy tấm hình của nhà triệu phú, rồi
nói với ba chàng thanh niên:
-
Ai bắn trúng thì được lãnh nhận gia
tài.
Chàng thanh niên thứ nhất giơ súng và
bắn, chàng thanh niên thứ hai cũng giơ súng và bắn. Còn chàng thanh niên thứ ba
cũng giơ súng, nhưng rồi lại bỏ xuống và nói:
- Mặc
dù đây chỉ là một tấm ảnh, nhưng nó gợi nhớ đến ba tôi, tôi không thể bắn.
Nhờ lòng yêu mến chân thành, viên quan
tòa đã nhận ra chàng thanh niên thứ ba mới đúng là người con đích thực của nhà
triệu phú và trao gia tài cho chàng.
Lòng
yêu mến chân thành, được biểu lộ qua những việc làm cụ thể, chứng tỏ chúng ta
là những người môn đệ đích thực của Chúa, bằng không, khuôn mặt đạo đức của
chúng ta sẽ bị rơi xuống và chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình.
15.
Giả hình.
Rửa tay trước khi ăn, đối với người Do
thái là một quốc tục, một thánh lệ. Các người Pharisêu và kinh sư nói riêng và
dân Do thái nói chung, thường rất khắt khe với tục lệ này. Họ cho đó là một
nghi thức truyền thống quan trọng phải tuân giữ triệt để, để tỏ ra mình thanh
sạch trước mọi người. Cái tục rửa tay của họ rất phức tạp chứ không đơn giản
như kiểu chúng ta rửa tay để ăn uống: rửa ngón tay, bàn tay, cổ tay. Phải đổ
nước từ từ cẩn thận từng chút, từng chỗ… thật cầu kỳ, phiền phức. Khi rửa tay
như vậy, họ nghĩ rằng họ đã làm đẹp lòng Thiên Chúa vì đã làm đúng luật lệ và
họ tin rằng một nghi thức bên ngoài như vậy có sức làm cho họ được thanh sạch.
Vì thế, khi thấy các môn đệ của Chúa ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay, không
làm theo tập tục của họ, họ bực tức khó chịu, nên đã hạch hỏi và bắt bẻ Chúa.
Nhân
dịp này Chúa Giêsu đã dạy cho họ một bài học thế nào là bẩn hay sạch. Trước
hết, Chúa trưng lời ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng,
còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Chúa nhắc lại lời này để tố cáo họ đã khoác bên
ngoài một bộ áo đạo đức để che lấp đi những hành vi xấu xa tội lỗi bên trong. Như
thế là giả hình, giả dối. Họ đã coi cái võ quan trọng hơn cái ruột; cái hình
thức hơn nội dung; cái bên ngoài cần hơn tấm lòng. Vấn đề rửa tay trước khi ăn.
Thử hỏi việc rửa tay cần hay rửa tấm lòng là cần? Thật tình, nếu tay bẩn, chúng
ta có thể dùng đũa, dùng thìa, chúng ta có ăn bốc đâu. Còn của ăn, tự nó là
sạch, và được nấu nướng vệ sinh là sạch. Vì thế, Chúa nói cái làm cho bẩn là
tấm lòng. Đúng vậy, lòng có đầy mới tràn ra ngoài bằng lời nói hay hành động:
miệng nói ra những tư tưởng chất chứa trong lòng. Nếu đó là những tư tưởng tốt
đẹp sẽ hướng dẫn con người hành động thiện hảo. Ngược lại, tư tưởng xấu sẽ dẫn
người ta đến những hành vi độc ác, xấu xa. Thực vậy, chính cõi lòng mới là
nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay xấu. Chính từ cõi lòng này mà sinh
ra mười hai nết xấu Chúa kể trong Tin Mừng. Đó là mười hai tội chính và còn
biết bao ác quả phụ tùng kèm theo nữa. Cho nên, người đời đã phải than rằng:
“Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”, “Lòng người thăm
thẳm mù khơi. Không bờ không bến biết nơi nào dò”. Tục ngữ còn nói: “Khẩu Phật
tâm xà” hay “Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm”. Để diễn tả người mang mặt nạ giả
danh bên ngoài với dụng ý che giấu lòng dạ hiểm độc bên trong; hạng người như
hạng tú bà bị Nguyễn Du châm biếm trong truyện Kiều: “Bề ngoài thơn thớt nói
cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Câu chuyện sau đây là một bằng chứng:
Trịnh Tụ là vợ của vua nước Sở, ghen tức với một mỹ nữ đã lọt vào mắt đen của
nhà vua. Bà đã nghĩ ra một kế để hạ tình địch của mình. Một hôm, bà làm ra vẻ
thân mật nói với mỹ nữ rằng: “Nhà vua có tính không thích người khác thở hơi
vào mình. Nên khi vào hầu vua, thì phải giữ ý bịt mũi lại”. Mỹ nữ tưởng thật
nghe theo. Mỗi lần tới hầu vua là lấy tay bịt mũi. Nhà vua lấy làm lạ hỏi tại
sao vậy? Trịnh Tụ mau mắn trả lời: “Dạ thưa, người ấy sợ đại vương thân thể hôi
hám, nên mới có cử chỉ như vậy”. Vua Sở nổi giận truyền đem mỹ nữ cắt mũi đi.
Lòng
dạ con người thật nham hiểm. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: loài người không dò
thấu được lòng nhau, nhưng Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng mỗi người: “Ta là
Thiên Chúa, Ta thấu suốt tâm can mỗi người từng gang tấc”. “Thiên Chúa, Đấng
thấu suốt nơi kín nhiệm, sẽ thưởng công cho ngươi”, “Loài người nhìn bên ngoài,
nhưng Thiên Chúa nhìn bên trong”, “Không có gì có thể che giấu được Thiên
Chúa”… Lời Chúa thật rõ ràng, chúng ta không thể sống che giấu Thiên Chúa được.
Chúng ta có thể sống đóng kịch, giấu diếm một số người, một số nơi, một số năm
tháng, nhưng chúng ta không thể che giấu nổi Thiên Chúa. Chúng ta hãy suy nghĩ
xem: chúng ta có thường mắc phải cái tật xấu giả hình, giả dối của những người
Pharisêu và Kinh sư không? Chúng ta có coi nước sơn bên ngoài quan trọng hơn
thứ gỗ bên trong không? Chúng ta nghĩ gì về một đời sống đạo đức, sốt sắng đọc
kinh dâng lễ, nhưngc có thể bị đánh giá là chỉ tôn kính Chúa ngoài môi miệng,
còn lòng thì xa Chúa? Sống với nhau, chúng ta có đối xử với nhau theo kiểu chỉ
có bề ngoài không? Lời Chúa nhắc nhở chúng ta hãy nhìn lại cách sống của mình.
Ít nhất một bài học chúng ta có thể rút ra từ bài Tin Mừng là: cố gắng thành
thật với chính mình và lo hoán cải sửa đổi bên trong hơn là lo trang điểm,
trình diễn bên ngoài. Thà “xanh vỏ đỏ lòng” còn hơn là “tốt mã rã đám”.
16.
Bên trong.
Chỉ
có một người điên mới rửa một cái tách ở bên ngoài mà không rửa ở bên trong. Ít
ra chúng ta phải chắc chắn bên trong đã được rửa sạch, còn bên ngoài thế nào
cũng được. Đức Giêsu nói chúng ta cũng phải làm như thế đối với chính mình.
Chúng ta phải có bên trong sạch sẽ, bên ngoài thế nào cũng được. Thật vậy, nếu
bên trong (tâm hồn) đã thanh sạch thì bên ngoài (thái độ của chúng ta) cũng sẽ
thanh sạch. Nhưng nếu bên trong không thanh sạch thì bên ngoài cũng sẽ không
thanh sạch. Bên ngoài sẽ phản ảnh tình trạng của bên trong.
Những
người Pharisêu đã nhìn điều xấu như một vật ở bên ngoài họ – trong các sự vật
và đặc biệt trong những người khác. Họ tự hào mình là những người đạo đức và
xem thường những người khác. Nếu điều xấu ở bên ngoài họ, thì họ có thể bảo vệ
họ khỏi điều xấu bằng cách tránh tiếp xúc với dân chúng, hoặc nơi nào làm họ
không thể thực hiện việc tắm rửa theo đúng nghi thức.
Những
người Pharisêu là những người chân thành. Chỉ có điều là các nỗ lực của họ
hướng về mục đích sai lầm. Đối với họ, cái bên ngoài là tất cả. Vì thế họ quan
tâm đến sự thanh sạch bên ngoài mà bỏ quên điều quan trọng hơn – sự thanh sạch
nội tâm hoặc sự thanh sạch của tâm hồn.
Đức
Giêsu nói rằng căn nguyên của điều xấu ở bên trong chúng ta. Nó có gốc rễ trong tâm hồn chúng ta.
Chúng ta không thể bảo vệ mình khỏi điều xấu bằng việc cách ly với những người
khác. Tất cả những điều ghê tởm mà Người liệt kê và chúng ta đọc trên báo chí:
tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng,
ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng – tất cả những điều xấu xa đó đều
xuất phát từ bên trong con người. Mầm mống của chúng ở bên trong tất cả chúng
ta. Những điều đó làm cho một người trở nên ô uế trước mặt Thiên Chúa.
Đó
là sự thật rất khó chịu và mỗi người chúng ta không biết đến hiểm họa của chính
mình. Một vấn đề lớn của thời đại chúng ta là sự hiểu biết thiếu sót của chúng
ta về chính mình, về điều xấu để nhận ra và đối phó với nó bên trong chúng ta.
Dù sao cũng có một thứ an ủi và tự do khi biết được và chấp nhận sự thật khiêm
nhường ấy.
Ngày
nay, có một sự quan tâm to lớn đối với việc làm sạch sẽ thân thể. Vì thế mới có
mọi thứ quảng cáo về xà bông và nước hoa. Và cũng có sự quan tâm về môi trường
– với chất lượng của nước uống, thực phẩm, và không khí. Điều đó không phải là
không quan trọng. Chỉ có điều là có một môi trường khác còn quan trọng hơn: môi
trường đạo đức. Điều xấu là thứ ô nhiễm tồi tệ nhất trong mọi thứ ô nhiễm.
Nhưng
nếu nguồn gốc điều xấu ở bên trong chúng ta, thì nguồn gốc của điều tốt cũng
thế. Mọi tư tưởng lời nói và công việc của chúng ta tuôn trào từ tâm hồn như
nước từ một dòng suối giấu kín. Nếu dòng suối trong sạch thì dòng chảy phát
xuất từ đó sẽ trong sạch. Chúng ta phải làm thanh sạch suối nguồn.
Có một câu chuyện về một vị thầy một
ngày nọ đặt những câu hỏi sau đây cho một số môn đệ: “Người ta phải tránh điều
gì nhất trong đời?”
“Một con mắt xấu xa”, môn đệ thứ nhất
nói.
“Một người bạn phản bội”, môn đệ thứ
hai nói.
“Một người láng giềng xấu”, môn đệ thứ
ba nói.
“Một tâm hồn xấu”, môn đệ thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất
bởi vì nó bao hàm mọi câu khác. Rồi ông nói: “Và điều gì đáng ao ước nhất mà
người ta cố gắng đạt đến trong đời?”
“Một con mắt tốt”, một người nói.
“Một người bạn tốt”, người thứ hai
nói.
“Một người láng giềng tốt”, người thứ
ba nói.
“Một tâm hồn tốt”, người thứ tư nói.
Vị thầy thích câu đáp cuối cùng nhất,
vì nó bao hàm mọi câu khác.
Chúng
ta phải cố gắng đạt đến sự trong sạch của tâm hồn. Sự trong sạch hoàn toàn của
con người là điều không thể đạt được ở đây trên trần gian này. Nó là một cuộc
đấu tranh liên tục. Một tâm hồn trong sạch, tinh tuyền không giống với một tâm
hồn trống rỗng. Một tâm hồn đầy lòng yêu thương là một tâm hồn tinh tuyền và
lành mạnh.
17.
Bài giảng thứ ba mươi hai.
Trong một buổi cấm phòng, vị linh mục
72 tuổi đã biết đến một cha xứ mới được bổ nhiệm đến một nhà thờ ở tiểu bang
Kentucky, không xa một chỗ chạy đua Churchill Downs cho mấy: Vào ngày Chúa Nhật
đầu tiên, cha xứ mới đã giảng về cái xấu của cờ bạc, đánh cá độ và những tai
họa do cờ bạc gây nên cho một số gia đình. Sau Thánh lễ, ông chủ tịch hội đồng
giáo xứ liền gọi cha xứ lại và bảo rằng những người dâng cúng cho nhà thờ đa số
là những người đua cá ngựa và cờ bạc.
Vào Chúa Nhật thứ hai kế tiếp, cha xứ
giảng về nạn hút thuốc và những tai họa do hút thuốc gây nên, như bị ung thư
phổi và chết sớm. Cũng như lần trước, ông chủ tịch lại kéo cha xứ lại và bảo
rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho nhà thờ là những người trồng cây
thuốc lá, và tiểu bang Kentucky là nổi tiếng nghề này. Vào Chúa Nhật thứ ba kế
tiếp, cha xứ giảng về nạn uống rượu bia và tai họa do rượu bia gây nên cho các
gia đình, như gây tai nạn xe cộ và đập phá nhà cửa. Cũng như lần trước, ông chủ
tịch lại kéo cha xứ lại và bảo rằng đa số những người dâng cúng rộng rãi cho
nhà thờ là những nhà nấu rượu và tiểu bang Kentucky nổi tiếng về công việc này.
Cha xứ thất vọng mới hỏi lại ông chủ tịch rằng: "Vậy tôi có thể giảng về
vấn đề gì?" Ông chủ tịch liền trả lời: "Hãy giảng chống lại các nhà
chính trị lừa đảo, mà trong giáo xứ chúng ta không có những hạng người
này."
Câu
chuyện trên nói lên một điểm là nhiều người đi lễ giữ đạo nhưng không thích
nghe những điều động đến cuộc sống của họ, không muốn sửa đổi cuộc sống để thực
sự sống đạo, sống theo những điều Chúa Kitô dạy.
Đây
chính là chủ nghĩa tuân theo luật pháp mà Chúa Giêsu đã lên án kịch liệt trong
thời của Ngài. Để diễn tả những cách đạo đức giả của chủ nghĩa tuân theo luật
pháp này, William Barclay đã kể cho chúng ta một câu truyện sau đây. Câu truyện
này tả về một người Hồi giáo đuổi giết kẻ thù của anh.
Trong khi đang đuổi giết kẻ thù của
mình, người Hồi giáo nghe chuông báo giờ cầu nguyện. Anh liền ngừng ngựa lại,
trải tấm chiếu ra, quì xuống và cầu nguyện nhanh bao nhiêu có thể. Sau khi đọc
xong lời nguyện, anh liền nhảy lên ngựa và tiếp tục đuổi giết kẻ thù của mình.
Theo
đạo không chỉ là làm những gì buộc vào các ngày Chúa Nhật. Không chỉ là giữ một
số luật lệ, đọc một số kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức.
Chúa
Giêsu đã nói rất rõ theo đạo không chỉ là làm một số nghi thức theo luật buộc
vào một số giờ trong ngày. Sống đạo không chỉ là giữ một số luật lệ, đọc một số
kinh, hoặc làm một vài cử chỉ đạo đức. Nhưng sống đạo là ở trong tâm hồn. Sống
đạo là một việc làm của trái tim kêu gọi yêu mến Thiên Chúa và nhân loại. Chúa
Giêsu trưng lại Cựu Ước: "Dân này thờ Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng
thì xa Ta". Hơn nữa, các bài đọc còn mời gọi chúng ta hãy nhìn vào tâm hồn
của mình để xét mình coi trong phạm vi nào mà lời của Thánh Giacôbê viết trong
bài đọc thứ hai hôm nay áp dụng với chúng ta: "Anh em hãy thực thi lời đã
nghe, chớ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình."
18.
Tiến sĩ luật bị tù – Lm. Mark Link.
Chủ đề: "Trọng tâm tôn giáo không
ở tại nghi thức và lề luật mà ở tại yêu mến Chúa và tha nhân"
Nhà thần học William Barclay kể lại
câu chuyện một Rabbi (tiến sĩ Luật Do Thái giáo) lão thành nọ bị tù ở Rôma. Ông
chỉ được ăn uống tối thiểu nhằm mục đích kéo dài cuộc sống. Thời gian trôi qua,
vị Rabbi ấy ngày càng yếu dần. Cuối cùng người ta buộc phải mời một y sĩ đến
khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông ta bị thiếu nước. Báo cáo của y sĩ khiến đám sĩ
quan cai ngục bối rối. Họ không hiểu nổi tại sao vị Rabbi ấy lại có thể thiếu
nước, bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, song vẫn tương đối đủ
chứ đâu đến nỗi tệ! Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát "Ông già"
ấy một cách kỹ lưỡng hơn để thử xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng
người ta đã khám phá ra bí mật. Ông Rabbi ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa
tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn. Như thế đương nhiên ông
ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Câu
chuyện trên giúp chúng ta hiểu được bài Phúc Âm hôm nay. Nó giúp ta hiểu rõ hơn
các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái đã cảm thấy chướng tai gai mắt và bực bội thế
nào khi nhìn thấy các môn đệ Chúa Giêsu ăn uống mà chẳng chịu rửa tay theo đúng
nghi thức. Đấy chính là điểm quan trọng của bài Phúc Âm hôm nay. Điểm quan
trọng này được biểu lộ trong một tranh luận sôi nổi giữa chúng ta và những nhà
lãnh đạo tôn giáo Do Thái. Chúng ta hãy xét kỹ hơn cuộc tranh luận đặc biệt
này.
Khi
Chúa Giêsu nói về "Lề luật", thì từ ngữ này có một trong hai ý nghĩa:
Hoặc là lề luật thành văn hoặc là lề luật "truyền khẩu". Trong hai
thứ lề luật này cái cổ hơn và quan trọng hơn là lề luật thành văn. Lề luật này
căn cứ trên sách Torah (Ngũ Thư) nghĩa là 5 quyển sách đầu tiên của Cựu Ước,
đôi khi còn gọi là luật Môisê. Một số lề luật này mang tính cụ thể và đặc thù,
số còn lại thì rất chung chung giống những kiểu mẫu phải theo hơn là luật lệ.
Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những "kiểu mẫu"
này. Họ áp dụng chúng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy
nhiên, tới thế kỷ thứ năm trước Công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu về
Luật đã tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ trong dân chúng Israel. Họ thấy những
điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải
được soạn thảo lại cho rõ ràng, với nhiều chi tiết hơn. Và họ đã tiến hành làm
công việc ấy. Từ đó phát sinh ra bộ luật thứ hai, gồm những luật truyền miệng,
hay những truyền thống khẩu truyền. Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng
Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện
bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế
đều phải rửa tay trước khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này
là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng
thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng cũng bắt chước các tư tế rửa tay trước
khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước
khi dùng bữa nữa. Vào thời Chúa Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lề luật
truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của
Ngũ Thư. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi nó
nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống. Nhưng
trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xảy ra vì tôn giáo đã
dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức
bên ngoài: Tuân giữ những nghi thức này thì được kể là đạo đức, là biết phụng
sự Chúa. Để nói lên sự nguy hiểm của thói nệ luật ấy, William Barclay chứng tỏ
rằng xét về mặt lý thuyết, người ta có thể căm ghét kẻ khác một cách sâu sắc từ
trong trái tim, nhưng họ chẳng hề áy náy gì cả "bao lâu họ còn tuân thủ
chặt chẽ nghi thức rửa tay và những nghi thức đúng đắn khác về vấn đề thanh
tẩy".
Để minh hoạ thói nệ luật này rõ hơn,
Barclay kể thêm một câu chuyện có lẽ có ghi trong Nguỵ thư nói về một người Hồi
Giáo đuổi theo để giết kẻ thù của anh ta. Đang khi rượt theo kẻ thù ấy, chợt
hồi chuông báo giờ cầu nguyện vang lên. Lập tức anh hồi giáo này nhảy ngay
xuống ngựa, mở thánh kinh ra quì gối xuống và cầu kinh theo như luật định một
cách hết sức lẹ làng. Đoạn, anh ta lại leo lên ngựa tiếp tục rượt theo kẻ thù.
Đó chính là chủ nghĩa câu nệ lề luật mà Chúa Giêsu cực lực phản đối.
Tất
cả những chuyện ấy dạy chúng ta điều gì? Nó cảnh cáo ta đừng rơi vào chủ nghĩa
đồng hoá tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chẳng hạn việc đi
lễ, đọc kinh, đọc sách thánh, làm việc bố thí… tự chúng chưa bảo đảm rằng chúng
ta thánh thiện đâu. Lý do rất đơn giản là chúng ta có thể làm tất cả những điều
này vì một lý do không mấy đúng đắn, hoặc chúng ta có thể làm tất cả điều này
mà không phải do yêu thương, vì điều quan trọng không phải là việc chúng ta
làm, mà chính là tình yêu trong trái tim đã thúc đẩy chúng ta làm việc đó. Nếu
trái tim chúng ta chất đầy nỗi chua chát hoặc kiêu căng thì tất cả mọi nghi
thức bề ngoài trước mắt thế gian cũng sẽ chẳng làm cho chúng ta thánh thiện
trước mặt Chúa.
Bài
Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình, tự vấn xem mình đã áp
dụng những lời trong bài đọc thứ hai chưa? "Anh chị em đừng đánh lừa mình
khi cho rằng chỉ cần nghe lời Chúa là đủ… Tôn giáo tinh tuyền và chân thực phải
là biết lo lắng cho kẻ mồ côi goá bụa.. và giữ mình khỏi bị băng hoại hư
hỏng". Và liệu những lời của tiên tri Isaia mà Chúa Giêsu dùng trong bài
Phúc Âm hôm nay bao gồm cả chúng ta không? "Đám dân này thờ Ta ngoài môi
miệng, còn lòng dạ chúng thì quả thực là xa Ta".
Tóm
lại, điều cốt lõi trong tôn giáo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ,
mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Hành động của chúng ta
phải phát xuất từ tình yêu, từ con tim: yêu Thiên Chúa và thương tha nhân. Để
kết thúc, chúng ta hãy nghiêm trang đọc lại những lời nói về Tình yêu của thánh
Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô. "Dù cho tôi có biệt tài
giảng thuyết… Dù cho đức tin tôi cực kỳ mạnh mẽ có thể dời núi chuyển non, mà
nếu chẳng có Đức Ái thì tôi sẽ chẳng là gì cả. Dầu tôi dâng hiến tất cả mọi
điều tôi có mà tôi không có Đức Ái thì điều ấy cũng chả lợi lộc gì cho tôi.
"Tình
yêu đòi hỏi sự kiên nhẫn và tử tế, không ganh tị, kiêu căng xấc láo, tình yêu
khiến ta không vụng xử, không ích kỷ hay dễ nóng giận, tình yêu không để bụng
chấp nhất những sai trái. Tình yêu không bao giờ lùi bước, tình yêu thì bất
diệt. Vì thế, tình yêu chính là điều anh em phải nổ lực tìm kiếm". (1Cr
13, 2-8; 14,1)
19.
Suy niệm của JKN.
Sự công chính và thánh thiện theo quan
niệm của Đức Giêsu
Câu hỏi gợi ý:
1. Nhiều
người quan niệm: càng giữ luật cho nhiệm nhặt, thậm chí đến từng chi tiết, thì
càng nên công chính thánh thiện. Quan niệm như thế có đúng không? Người quan
niệm như thế thường gặp những nguy hiểm nào?
2. Đức Giêsu
thánh thiện hơn các kinh sư Do thái rất nhiều, nhưng Ngài có giữ luật Thiên
Chúa nhiệm nhặt hơn họ không? Tại sao vậy? Ngài quan niệm việc giữ lề luật
Thiên Chúa như thế nào?
3. Hành động
bên ngoài tự nó có giá trị không? Hay nó còn tùy thuộc vào cái tâm ở bên trong?
vào động cơ thúc đẩy ta thực hiện hành động ấy? Vậy: phải có những hành động
tốt hay phải làm sao có cái tâm cho tốt?
Suy tư gợi ý:
1.
Quan niệm của các kinh sư Do thái về sự công chính
Đọc
bốn sách Tin Mừng, tôi phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các kinh sư Do
thái: họ giữ luật Môsê cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Ngoài những điều khoản của lề luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong
truyền thống Do thái giáo. Bài Tin Mừng hôm nay cho biết: «Người Pharisêu cũng
như mọi người Do thái đều giữ truyền thống của tiền nhân: họ không ăn gì khi
chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về cũng phải rảy nước đã rồi mới
ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa chén bát, bình lọ và các đồ
đồng». Họ hành động như vậy vì họ cho rằng sự công chính và thánh thiện hệ tại
việc giữ luật và tuân theo truyền thống tôn giáo cho thật cẩn thận. Càng giữ
luật kỹ lưỡng đến từng chi tiết nhỏ nhặt thì càng công chính hay thánh thiện.
Chắc
chắn trong họ có những người nghĩ và thực hành như vậy một cách rất chân thành,
với mục đích rất tốt lành là nên công chính hay nên thánh. Họ nghĩ rằng tất cả
những ai thánh thiện thì đều phải giữ luật như họ. Nếu có ai thánh thiện hơn
họ, ắt người ấy phải giữ luật và những tập tục truyền thống một cách nhiệm nhặt
và chi ly hơn họ. Chính vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy các môn đệ của một thầy
dạy đạo như Đức Giêsu lại không giữ luật và truyền thống như họ. Họ hỏi Ngài:
«Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế
mà dùng bữa?»
2.
Sự công chính và thánh thiện theo quan niệm của Đức Giêsu
Nhưng
Đức Giêsu đã cho họ - và cả ta nữa - thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc
giữ luật một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại
một cái gì đó sâu xa hơn nhiều. Cái đó ở trong nội tâm, chứ không phải ở bên
ngoài. Người ta vẫn nói: «Đạo tại tâm!». Cái đó chính là cái quan trọng nhất
trong lề luật, là cốt tủy của lề luật.
Điều
đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài
của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố
giác điều ấy: «Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình!
Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng (=tức những điều phụ
thuộc), mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và
sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ»
(Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh
thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý
và tình thương.
Thiết
tưởng người Kitô hữu không nên đi vào vết xe đổ của người Do thái là cứ quan
trọng hóa những điều phụ thuộc, mang tính bên ngoài, như giữ cho thật kỹ lưỡng
đến từng chi tiết luật này luật nọ, mà coi nhẹ cốt tủy của lề luật, vốn là tinh
thần ở bên trong. Điều thiết yếu là phải có tinh thần hay cốt tủy đó ở bên
trong đã, rồi tinh thần đó sẽ tự nhiên thúc đẩy ta thể hiện nó ra bên ngoài
thành thái độ hay hành động.
3.
Hãy nắm vững cái cốt tủy và ưu tiên thực hiện cốt tủy ấy trước
Nếu
chỉ có những hành động giữ luật bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên
trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước Thiên Chúa. Còn những người mà
luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống,
chẳng hạn một số thói quen quen được gọi là «việc đạo đức», những nghi thức do
con người sáng tạo, việc rước sách đình đám… thì việc giữ những tập tục ấy lại
càng ít giá trị hơn. Nên nhớ: tất cả những tập tục này đều tốt, nhưng không
phải là cốt tủy: thực hiện được thì tốt mà không thực hiện được cũng chẳng sao.
Đức Giêsu đã chỉ cho những người này thấy cái sai của họ: «Ngôn sứ Isaia thật
đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng:
“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng
có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật
phàm nhân”(Is 29,13). Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền
thống của người phàm».
Tôi
thấy trong nhiều hội nghị Kitô hữu, người ta thường tuân thủ những qui ước minh
nhiên (= được qui định rõ ràng) hoặc mặc nhiên (= tự nhiên phải hiểu, phải
biết, không cần nói ra). Chẳng hạn như: vấn đề thuộc phạm vi của người nào thì chính
người ấy phải nêu lên để bàn. Tuân thủ những qui định ấy là điều rất tốt để bảo
vệ trật tự trong hội nghị. Nhưng có những trường hợp mà những vấn đề rất quan
trọng có liên quan đến lương tâm của cả hội nghị thì lại không được đem ra bàn,
lý do là người có trách nhiệm chính vì một lý do nào đó không chịu đưa ra bàn.
Những người khác tuy bị lương tâm thúc giục phải đưa vấn đề ra, nhưng lại vị nể
hay quá tôn trọng quyền ưu tiên của người có trách nhiệm chính, nên cuối cùng
vấn đề lương tâm cần thiết phải bàn lại bị cho «chìm xuồng», vì thế công ích bị
thiệt hại nặng nề. Khi vị nể hay tôn trọng qui ước kiểu ấy phải chăng người ta
đã coi qui ước của phàm nhân quan trọng hơn cả luật của lương tâm, cũng là luật
của Thiên Chúa? Đạo đức kiểu đó là đạo đức gì?
4.
«Đạo tại tâm». Đúng rồi! nhưng coi chừng… tâm giả!
Tuy
nhiên, nhiều người lại đi đến một thái cực khác là không thèm làm những thể
hiện tốt đẹp bên ngoài. Họ ngụy biện rằng «Đạo tại tâm». Họ cho rằng họ đã có
cái cốt tủy của lề luật ở bên trong, nên đủ giá trị trước Thiên Chúa rồi. Nhưng
thánh Giacôbê tố cáo họ: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc
2,17.26). Nếu tinh thần cốt tủy kia không được thể hiện ra thành những hành
động bên ngoài, thì đó là một nghịch lý, mâu thuẫn. Hãy coi chừng cốt tủy kia
chỉ là cốt tủy giả hay tâm giả.
5.
Điều quan trọng là bên trong chứ không phải bên ngoài
Đức
Giêsu nói: «Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm,
trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong
xuất ra, và làm cho con người ra ô uế». Ngài cho thấy: yếu tố quan trọng để xác
định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những
việc làm bên ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên
ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại
làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng
hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí
thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác, hay làm
việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm được quyền hành hầu thao túng
lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người «tình ngay mà lý gian», hành động
thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng ý hướng thì tốt lành, nhằm ích lợi cho tha
nhân. Họ tuy bị người đời kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Vì
thế, trong đời sống tâm linh, người ta phải tu dưỡng cái «tâm» ở bên trong
trước: phải có tâm ngay thẳng, thành thật, luôn tôn trọng sự công bằng, biết
yêu thương mọi người không phân biệt sang hèn tốt xấu. Khi đã có tâm tốt thật
sự, những việc làm của người ấy sẽ tự nhiên đẹp lòng Chúa. Thánh Âu Tinh nói:
«Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm!» (Ama et fac quod vis). Khi tâm đã quanh
quéo, ích kỷ, sẵn sàng hại người, thì bất kỳ việc làm do tâm ấy thúc đẩy - dù
bên ngoài có tốt lành đến đâu - cũng đều mang dấu ấn của tâm ấy, nên không mấy
giá trị trước Thiên Chúa.
Cầu Nguyện
Lạy
Cha, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm
hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con biết quan tâm đến
việc tu tâm dưỡng tánh, nghĩa là có một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật,
luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy
mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn
là việc giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều những hành
động tốt.
20.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
CHÚA
GIÊSU VÀ CÁC TRUYỀN THỐNG CỦA BIỆT PHÁI
Ở
đây lại xẩy ra một cuộc khẩu chiến mới như vẫn từng xảy ra giữa Chúa Giêsu và
những người Do Thái nhiệt thành nhất thời đó tức nhóm biệt phái và luật sĩ
(c.1). Họ bắt bẻ Chúa Giêsu về một điều xem ra nhỏ nhặt liên quan tới hạnh kiểm
các môn đệ Ngài: đó là những môn đệ này dùng bữa với bàn tay “dơ bẩn”, tức là
không rửa trước khi dùng bữa (c.2). vì các độc giả Rôma của ông không hiểu về
tập tục Do Thái nên Maccô buộc lòng phải cắt nghĩa dài dòng tại sao sự việc ấy
lại phát sinh ra vấn đề (c.3-4). Việc dân Do Thái giữ đủ thứ lề luật tỉ mỉ liên
quan đến bữa ăn có nguồn gốc từ thời luật Môsê. Để giữ cho dân riêng Chúa được
tinh tuyền về mặt xã hội và tôn giáo, luật Môsê cấm họ không được đụng chạm tới
bất cứ người hay thực phẩm nào bị tuyên bố là “ô uế” (Lv 11, 16). Trong đời
sống thường nhật, mỗi khi từ nơi công cộng hoặc phố chợ trở về, dân Israel luôn
tự cảm thấy mình “ô uế” xét về mặt nghi thức: bởi vì họ đã chẳng đi kề cạnh đám
người tội lỗi và đám dân ngoại sao? (chẳng hạn lũ thương gia và những gã lính
Rôma xâm lược). Từ đó phát sinh ra đủ thứ nghi thức tẩy rửa trước khi ăn, và
câu hỏi họ đưa ra cật vấn Chúa Giêsu có liên quan đến việc các bạn hữu Ngài lơ
là không tuân thủ các quy luật này (c.5).
Chẳng
cần quanh co, lập tức Chúa Giêsu tuyên bố ngay thói giả dối của họ (c.6-7). Vì
đang nói đám chuyên gia Kinh Thánh nên Chúa Giêsu liền nại đến Kinh Thánh (ở
đây Ngài trích sách Isaia 29,13), vị tiên tri sống vào thế kỷ thứ VIII trước
Chúa Kitô, Ôsê cũng đã từng kết tội đám đồng hương của ông về thứ thờ phụng mà
“chẳng có hồn” này (Hs 5,21-25). Chúa Giêsu không ngần ngại lập lại lời phán
xét gay gắt đó và Ngài kết luận: các ông lấy truyền thống hoàn toàn mang tính
cách nhân loại để thay thế cho Lời Thiên Chúa! (c.8). Lời tố cáo quả rất nghiêm
trọng, nặng nề. Biết rõ một số luật Môsê đang được các đạo sĩ Do Thái tranh
luận, Chúa Giêsu liền trưng ra một ví dụ súc tích: ví dụ các lời khấn hứa (c.
10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị nhiều lạm dụng. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị
luật” quen thuộc, đám biệt phái đã bẻ quẹo một điểm then chốt của Lời Chúa (sự
giúp đỡ cha mẹ theo Thập giới (Xh 20,12) để đạt được những tặng phẩm dâng cúng
cho đền thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh
vực truyền thống đã rơi vào tình trạng tiêu huỷ Lời Thiên Chúa.
Chúa
Giêsu đã mở rộng cuộc tranh luận với đám cử toạ hạn hẹp này ra tới quảng đại
quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách kết quả hơn
(c.14-15). Ngài đưa ra một dụ ngôn nhỏ mang dáng vẻ nhiệm mầu. Đám đông có thể
hiểu nổi dụ ngôn này không? Như vẫn thường thấy nơi Phúc Âm Maccô (4,33-34), vị
Tôn Sư thường cắt nghĩa “tiếng” cho các môn đệ Ngài về các dụ ngôn Ngài nêu ra
(c.17. trước hết Ngài khiển trách họ không chịu động não cố hiểu được đôi điều
về lời giảng của Ngài (c.18a). sau đó Ngài ban cho họ chìa khoá của vấn nạn
(c.18b- 19a). Làm dơ bẩn người ta không phải là những thức ăn họ ăn và bởi vì
cuối cùng bộ tiêu hóa cũng sẽ thải ra ngoài hết. Không! Làm dơ bẩn người ta
chính là những tư tưởng phát xuất từ trái tim họ. Chính từ trái tim mà mọi ý đồ
nham hiểm xuất ra (c.20-23). Trong Kinh Thánh trái tim là chốn cư ngụ của tư
tưởng cũng như của tình cảm. Từ đó phát sinh những hư hỏng về mặt luân lý. Bản
liệt kê dài ở đây tương xứng với sổ kê đủ thứ tính hư tật xấu mà ta thường thấy
nơi các nhà luân lý đương thời (x. Gl 5,19-21).
Giống
như đám đông và sau đó là các môn đệ, chúng ta hẳn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu
đã đi lệch ra khỏi điểm xung đột lúc ban đầu giữa Ngài và đám biệt phái. Không
phải thế đâu. Một câu vắn gọn của Maccô nêu bật được trọn vẹn bài học chủ chốt
trong các lời nói của Chúa Giêsu (c.19b). Trước hết, điểm khác biệt được lưu
tâm là những quy tắc ăn uống thường được các người Do Thái nhiệt thành tuân
giữ. Có cả hàng đống thức ăn bị coi là “ô uế” không được dùng (x.Lv 11,1-30). Ở
đây, Chúa Giêsu trực tiếp công bố những quy luật ăn uống của truyền thống này
là lỗi thời bởi vì chúng phân hoá xã hội thành hai nhóm đối kháng: kẻ tốt và kẻ
xấu. Một bên là những kẻ “tinh tuyền”, tức đám biệt phái (có nghĩa là nhóm tách
biệt) và người tội lỗi. Chúa Giêsu đến để thiết lập một xã hội hòa đồng. Đứng
về phía Thiên Chúa, Ngài hiệp thông với tất cả những nạn nhân của sự kỳ thị xã
hội và tôn giáo do bè cánh biệt phái, những người “tinh tuyền và cứng cỏi” gây
ra. Ngài dùng bữa với những kẻ ô uế, “những kẻ bị khai trừ” (đám thu thuế, gái
điếm, lính Rôma v.v…). Đây quả là sự đổi mới phá đổ những bức vách ngăn đáng
trách của thời đại.
Maccô
đã dùng nhiều lời để tường thuật sự phản kháng của Chúa Giêsu trước những công
kích của đám biệt phái. Sở dĩ thế là vì Kitô giáo thời sơ khai phải va chạm
mạnh với vấn đề tiếp đón dân ngoại trở lại đạo. Tập tục Do Thái trong việc ăn
uống, những nghi thức thanh tẩy rườm rà đã ngăn cản “khách lạ” lui tới, mặc dù
họ đã trở nên huynh đệ trong đức tin. Chúng ta đã chứng kiến rõ sự khó khăn của
các tương giao giữa Kitô hữu gốc Do Thái và Kitô hữu gốc dân ngoại trong Công
vụ sứ đồ (10,1-11.18). Ở đó người ta thấy ngay chính tông đồ trưởng Phêrô cũng
còn bị nô lệ cho các “cấm kỵ” trong vấn đề ăn uống theo luật Do Thái khi ông
gặp gỡ Cornêliô, một người ngoại đạo. Rõ ràng các Kitô hữu gốc Do Thái phải tốn
khá nhiều tời gian mới giải thoát mình ra khỏi nhưng thành kiến chủng tộc và
tôn giáo là những thứ ngăn cản không cho họ thoải mái khi đồng bàn với anh em
gốc dân ngoại và điều này làm cho sứ vụ của Giáo Hội sơ khai bị bế tắc. Cộng
đoàn Kitô giáo của Maccô chắc chắn phải đương đầu với những vấn đề tương tự và
họ nhớ lại vấn đề Chúa Giêsu đặt ra cho các người biệt phái. Trình thuật này
thiết lập cho họ sự thực hành về “bàn ăn mở rộng” rất thường bị chỉ trích. Và
có mặt trong “Chương nói về bánh” này (6,30 - 8,21) cũng như sẽ không ngạc
nhiên khi thấy xuất hiện vào lúc Chúa Giêsu sắp sửa hướng các môn đệ nhìn về sứ
mệnh khẩn cấp là ra đi truyền giáo cho dân ngoại (xem trình thuật kế tiếp 7,24-30).
21.
Chú giải của Noel Quesson.
Có
những người Pharisêu và một số kinh sư tụ họp quanh Đức Giêsu. Họ là những
người từ Giêrusalem đến
Đối với Maccô, nơi chốn luôn có một giá trị biểu tượng
Giêrusalem là nơi chống đối Đức Giêsu. Qua mười một chương đầu của Tin Mừng
trong suốt phần đầu của sứ vụ Đức Giêsu, mỗi lần kể tên thành phố này là nhắc
đến sự chống đối: Chính từ Giêrusalem, Thủ đô chính trị và tôn giáo này, đã
xuất phát mọi cuộc công kích đầy ác ý. Chính nơi đó, những nhà hữu trách của
đất nước sau này sẽ kết án tử hình Chúa, và giao nộp Chúa cho dân ngoại.
Lạy Chúa, đây là mầu nhiệm việc loài Người ruồng bỏ
Chúa. Và theo đó, Giêrusalem cũng tượng trưng cho toàn thế giới.
Họ
thấy vài môn đệ của Người dùng bữa mà tay còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thật
vậy, người Pharisêu cũng như mọi người Do thái đều nắm giữ truyền thống của
tiền nhân: họ không ăn gì, khi chưa rửa tay cẩn thận; thức gì mua ngoài chợ về,
cũng phải rảy nước đã rồi mới ăn; họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa như rửa
chén bát, bình lọ và các đồ đồng.
Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh, mà là tập tục
tôn giáo về "sạch" và "nhơ", được ghi thành luật của Môsê
trong sách Lêvi (11), được thêm vào nhiều chi tiết và quy định qua truyền
thống. Người Pharisêu đã thành lập một thứ đảng phái tôn giáo mà chúng ta có
thể lầm lẫn nếu tự động xem họ như những người giả hình. Ngược lại, để trung
thành với lề luật tổ tiên, họ tuân giữ kỹ lưỡng từng chi tiết truyền thống: Họ
đã kê ra hơn 600 giới răn phải tuân giữ! Để tìm hiểu sự thánh thiện và thể hiện
tình yêu tinh tế đối với Chúa, lúc nào trong ngày họ cũng nghĩ về Chúa, dù phải
làm đủ thứ việc.
Vậy, người Pharisêu và kinh sư hỏi Đức Giêsu: “Sao các
môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng
bữa?”.
Có nhiều cách giải thích cho thái độ này:
1) Môn đệ của Đức Giêsu và chính Đức Giêsu, là những
người xứ Galilê, những người thuộc tỉnh lẻ, dù vẫn là những tín hữu sốt sắng,
nhưng đã cho chen vào tục lệ chung một vài truyền thống địa phương bị những
người "trong sạch" ở Giêrusalem coi như những thái độ buông thả.
Chúng ta biết rằng Đức Giêsu thường bênh vực những người bị đăt ra "ngoài
lề", những người bị khinh chê: Đó là loại người tội lỗi thu thuế, gái
điếm. Đức Giêsu đã bày tỏ quan điểm mạnh mẽ về lòng xót thương và độ lượng với
những kẻ hèn mọn, nghèo khổ... nghịch lại thái độ xét đoán khắt khe của
Giêrusalem. Còn chúng ta thì sao?
2) Nhưng có một lý do khác, có lẽ quyết định hơn: Đó là
Đức Giêsu có một đường hướng sâu sắc về "tính phổ quát”. Người huấn luyện
dần dần các môn đệ để thành thừa sai trong những quốc gia có văn hóa khác với
môi trường Do Thái cổ truyền: Những khuôn khổ chật hẹp và rất cá biệt của đạo
Do Thái cần phải bung ra, để chỉ còn giữ những điều cốt yếu, nhằm cho người
ngoại giáo có thiện chí, không có những tục lệ về ăn uống như người Do Thái, có
thể đón nhận đức tin.
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết phân biệt những gì là
cốt yếu trong sứ điệp của Chúa với những gì là tục lệ cổ truyền của những thế
kỷ trước, thường làm cho những người thuộc thời đại chúng con chán ngán một
cách vô lý. Lạy Chúa, sống giữa thời đại biến đổi văn hóa này, xin cho chúng
con nhận biết những gì là bất di bất dịch và những gì phải thay đổi, để cho hậu
thế không bị nhũng lại trước đức tin, chỉ vì chúng con quá ràng buộc họ vào những
"tập tục người xưa".
3)
Nhưng lát nữa, Đức Giêsu còn đưa ra một lý do thứ ba cho thái độ mới mà Người
đề cao: Đó là những "tục lệ” không phải do Chúa, mà phát sinh từ con người
của những thời trước. Vậy, những tập tục này cần phải tùy thuộc vào sự tiến hóa.
Người trả lời họ: "Ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên
tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn
kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng
Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”
Câu trả lời của Chúa thật là mạnh mẽ. Người bắt đầu tấn
công. Người dựa trên Kinh thánh để trả lời cho những kẻ tấn công môn đệ của
Người (Is 29,13). Các ngôn sứ cũng thường lên án thứ tôn giáo duy hình thức đó.
Đối với Thiên Chúa, không phải những cử chỉ bên ngoài là quan trọng, mà là
"tấm lòng". Thờ phượng chỉ để thờ phượng, thì không có giá trị. Việc
phụng tự phải nói lên những xác tín sâu xa.
Sau
đó, Đức Giêsu lại gọi đám đông tới mà bảo: "Xin mọi người nghe tôi nói
đây, và hiểu cho rõ:
Đức Giêsu kêu gọi, cần phải hiểu biết và suy tư. Không
cần phải lặp lại những cử chỉ hay tập tục, chỉ vì người ta đã làm như vậy từ
lâu.
Không
có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế
được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.
Trong Do Thái giáo, luật về sự thanh sạch theo nghi thức
có nhiều ảnh hưởng đối với chế độ ăn uống: Cấm ăn thịt một số động vật, chẳng
hạn theo sách Lêvi 11. thì bất cứ thịt nào cũng là dơ bẩn, hay những con thú
không bị cắt tiết (Lc 17,10-14). Những quy định này làm cho sự đồng bàn đồng
tịch giữa người Do Thái và không phải Do Thái không thể nào thực hiện được, nếu
không chấp nhận theo tục lệ người Do Thái. Đó là một thứ rào cản để bảo vệ
Người Do Thái không được tiếp cận với thế giới ngoại đạo. Còn Đức Giêsu thì
tuyên bố: "Tất cả các thức ăn đều thanh sạch" (Mc 7,19). Quan điểm
này lúc bấy giờ có vẻ cực kỳ lạ lùng, táo bạo, và phóng khoáng. Như ngày nay
chúng ta vẫn thường nói. Chúng ta biết rằng, trong Giáo Hội sơ khai, vấn đề này
chưa được giải quyết (Cv 10,15).
Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định
xấu:
Yếu tố làm cho con người ra nhơ bẩn thực sự, không phải
cái người ta ăn, mà là điều người ta nghĩ. Sự nhơ bẩn không nằm trong vật chất
bên ngoài của một hành vi nào đó mà là trong lòng chúng ta? ở đây, Đức Giêsu
đưa vào luân lý một nguyên tắc hết sức cốt yếu, nhưng không được tâm tri người
thời nay áp dụng thực sự: Có những kiêng kỵ vẫn còn tồn tại, là rất trái ngược
với Tin Mừng. Hai hướng tinh thần giáo phái "Cathare" vẫn tồn tại.
Giáo phái này lên án thân xác và vật chất. Nhưng Kitô hữu đầu tiên hẳn là đã
phải chiến đấu chống lại Ngộ đạo thuyết và thuyết "Ma-nét" là nhưng
chủ thuyết khinh bỉ phái tính: “Tất cả những gì Chúa đã dựng nên đều là tốt và
không có gì là độc hại nếu ta đón nhận những điều đó trong thái độ tạ ơn".
Thánh Phaolô đã nói như vậy (1Tm 4,4). Chúng ta cần ghi
nhận rằng, Đức Giêsu không vì thế mà cố biện minh cho chứ quan thuyết có lẽ sẽ
làm mất bản chất tư tưởng của Chúa, nếu hiểu những lời này như là một sự biện
minh cho chủ trương "tự do phong tục": Nghĩa là mỗi người có quyền
làm những gì theo tiếng nói con tim! Đức Giêsu không loại tự ý niệm về
"điều xấu”. Người xác định vị trí điều xấu đó ngay bên trong con người,
trong sự thiếu tình thương. Đó là nguyên tắc căn bản của mọi thứ đạo đức mọi
nền luân lý không phải sơ đẳng: Chỉ cần làm một cử chỉ nào là tự động phạm một
tội thì chưa đủ. Cái xấu không phải ở trong sự vật, nó ở bên trong chúng ta.
Vâng, tâm hồn chúng ta là nguồn phát sinh ra thứ nước ô nhiễm do lòng ích kỷ
hãy nước trong sạch do tình yêu của chúng ta. Do đó chúng ta không thể xét đoán
Người anh em theo bề ngoài, vì chúng ta không thấy được tâm hồn người ấy, lương
tâm người ấy.
Vì
từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết
người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng,
kiêu ngạo, ngông cuồng.
Đây là danh mục duy nhất về tội lỗi mà Chúa Kitô đã cho
chúng ta biết, ngang qua đời sống của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tất cả những
tội lỗi này liên quan đến tình yêu, đến tha nhân. Đức Giêsu kể ra 4 nhóm mỗi
nhóm 3 tật xấu. Trong tiếng Hy Lạp 6 tật xấu đầu tiên được nói theo số nhiều và
6 tật xấu sau được nói theo số ít. Điều đó chỉ nhằm giúp dễ đọc để dễ thuộc
lòng. Vậy thì có 12 tội: Con số của sự sung mãn. Tất cả đều ở đấy. Chúng ta
phải thương yêu. Chúng ta sẽ bị xét đoán dựa theo tình yêu và tấm lòng của
chúng ta (Mt 25).
Rất có thể con người ngày nay không thích kể ra những
tật xấu. Thời đại của chúng ta đã đánh mất quá lớn ý thức về một điều cốt yếu
trong mọi nền văn minh cổ đại: Đó là vẻ đẹp của đức tính và cái xấu của tội
lỗi. Chúng ta cần lưu ý rằng, luân lý của Đức Giêsu là một thứ luân lý phổ quát
biết bao! Đức Giêsu biết rõ lòng người. Đó là luân lý căn bản tự nhiên nhất mà
Đức Giêsu đặt lại thành giá trị vượt lên trên những tập tục riêng của một nền
văn minh. Không có một tục lệ quốc gia nào, một tập truyền tổ tiên nào có thể
đi ngược lại những luật căn bản này mà mọi người đều phải công nhận trong thâm
tâm của mình .
Hỡi người anh em, không nên lướt đọc quá nhanh danh mục
trên, như nó không liên quan gì đến bạn. Bạn hãy tự hỏi sự tham lam, độc ác,
xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo, ngông cuồng đã mang một hình thức rõ rệt nào, hay
đội lốt gì đối với bạn?
Lạy Chúa, xin hãy thanh tẩy chúng con và giúp chúng con
được gần Chúa hơn.
22. Chú giải của Fiches
Dominicales.
“GIỚI RĂN THIÊN CHÚA” VÀ
“TRUYỀN THỐNG LOÀI NGƯỜI”
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI
1. Từ sạch sẽ của đôi bàn tay đến trong sạch của tâm hồn
Maccô có chủ tâm khi đặt đoạn Tin Mừng chúng ta đọc hôm
nay trong “phần nói về bánh", giữa hai lần bánh hóa nhiều: lần thứ nhất
tại vùng đất Do thái (6,35 và tiếp theo), và lần thứ hai tại vùng đất dân ngoại
(8,1-9). Quả thật, đó là cuộc tranh luận giữa Đức Giêsu với những người biệt
phái cùng ký lục về “sạch" và “ô uế”, sâu xa hơn, về thái độ kỳ thị của
người Do thái đối với dân ngoại. Họ cho rằng dân ngoại thì “ô uế", do đó
không được đi lại với những người này.
- Tranh luận bắt đầu từ một phản ửng của biệt phái và ký
lục từ Giêrusalem đến điều tra “xì căng đan" do các môn đệ Đức Giêsu gây
ra: vài người trong các ông “dùng bữa (nghĩa đen: ăn bánh) với đôi bàn tay dơ,
nghĩa là không rửa”.
Và Maccô kể cho những người dân ngoại đọc Tin Mừng của
ông, một vài tập tục nhằm bảo vệ người Do thái khỏi bị lây nhiễm đúng tập tục
ngoại lai và giữ cho dân Chúa được toàn vẹn về mặt xã hội cũng như tôn giáo. J.
Potin viết: "Nhờ cả một mạng lưới những chịt những điều cấm bao trùm từng
giây phút, từng tình huống trong đời sống hằng ngày mà dân Do thái vẫn giữ cẩn
thận luật về trong sạch (pureté) mà một thành viên của dân Thiên Chúa phải có.
Ví dụ, tư tế phải thanh tẩy hằng ngày trước khi bước qua tiền đường vào đền
thờ. Những hy lễ đền tội dâng tiến trong các cuộc hành hương ở Giêrusalem,
những lễ nghi rửa tay, sự chay tịnh, bố thí, những lời cầu nguyện đều nhằm tìm
lại sự trong sạch (pureté). Đôi khi sự trong sạch này bị mất đi vì những “sinh
hoạt" của cuộc sống hằng ngày như sinh đẻ, lỗi luật, tiếp xúc với xác chết
hoặc với người ngoại, người cùi, ... Theo cách nói của các Rabbi (thầy dạy),
luôn có một bức tường vây kín toàn bộ
đời sống của người Do thái để bảo vệ họ. (Xem “Đức Giêsu, lịch sử đích thực
Centurion, 192-193). J. Potin viết tiếp, những tập tục này tất nhiên đòi phải
có: “Lối sống định canh định cư rất khác biệt với hoàn cảnh sống rầy đây mai đó
của Đức Giêsu và các môn đệ. Hơn nữa, một số môn đệ là người bình dân nên dĩ
nhiên không được chuẩn bị sẵn sàng để tôn trọng những thói tục của dân thành
thị. (sách đã dẫn, tr. 193-194).
- Sau khi trả lời những người biệt phái và ký lục, Đức
Giêsu nói với đám đông rồi mới nói với các môn đệ.
] Chẳng những
không tìm cách xin lỗi cho các môn đệ, Đức Giêsu còn cự lại những người chống
đối và đánh giá họ là "những kẻ giả hình", khi dùng những lời tiên
tri Isaia để nói về họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng
chúng thì xa Ta. Chúng có thờ phụng Ta thì cũng vô ích; vì giáo lý chúng dạy là
những giới luật phàm nhân" (Is. 7,6-7 và 29,13). Kế đó, để tiếp tục phản
công, Ngài tố cáo những” truyền thống” do cha ông truyền lại (những “truyền
thống" của loài người) thường cho phép thay đổi cả những giới răn của
Thiên Chúa. Thậm chí Ngài đưa ra một ví dụ điển hình (sách bài đọc không nói
đến) để lột mặt nạ tính giả dối của những kẻ hay soi mói: “Hãy thờ cha kính
mẹ", đó là giới luật tuyệt đối Thiên Chúa đã truyền cho dân Ngài qua miệng
Môisen; tuy nhiên, người biệt phái đoan chắc rằng nếu ai hứa dâng cúng của cải
mình cho Ngân khố đền thờ thì được miễn nuôi dưỡng cha mẹ già (Họ nói rằng cái
gì đã hứa cho Thiên Chúa thì không thể cho người khác được nữa!) J. Potin giải
thích: “Đó rõ ràng là cách thay thế giá trị nền tảng của Thiên Chúa bằng sự
thánh hiến tiền bạc giả danh tôn giáo. Đây là một trường hợp quá đáng nên chính
những Kitô Do thái cũng chống lại vì họ rất gắn bó với gia đình. Đức Giêsu làm
mọi người cảm nhận rõ ràng do đâu những truyền thống phát xuất từ cơ chế tôn
giáo có thể làm biến chất chính căn bản nhất của nó và thậm chí cả hướng đi
trong sáng nhất của nó nữa". (sách đã dẫn, tr.194)
] Rồi Đức Giêsu quay sang nói với “đám
đông". Sau khi đã vượt lên trên sự đối nghịch sạch, ô uế theo nghi lễ,
Ngài đi ngược lên tận nguồn gốc của sự ô uế luân lý, nơi xuất phát mọi kết định
của con người: đó là “lòng" họ. Chỉ có một sự ô uế thật sự mà con người
mắc phải khi tự do quyết định: “Chính cái từ con người xuất ra, là cái làm con
người ra ô uế”.
M. Quesnel khẳng định: “Chắc chắn đó là bài học chủ yếu
của đoạn Tin Mừng này không có gì ở ngoài con người có thể làm họ trở nên dơ.
Về điều này, Maccô là một nhà cách mạng đối với người Do thái thời ông; ông tỏ
rõ rằng những người tin vào Đức Kitô và gia nhập Giáo hội không còn lệ thuộc
vào sự tuân giữ những luật lệ của Israel về sạch, ô uế nữa: đụng một xác chết
hay một người cùi ăn uống với người ngoại, uống máu những con vật, đối với
người Do thái, tất cả những hành vi này gây ra sự ô uế về lễ nghi, nhưng đối
với người tin vào Đức Kitô, thực sự chúng không còn chút khả năng nào để tách
rời họ khỏi Thiên Chúa”. (Đọc Tin Mừng Thánh Máccô thế nào?, Seuil, p. 125)
] Nhưng điều Đức
Giêsu vừa nói với đám đông thì lập tức tiếp đó Ngài nói với các môn đệ “trong
nhà". Sau khi đã kể ra một loạt những thói xấu và tội lỗi, Ngài kết luận:
“Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm con người ra ô
uế”.
2. Từ phân biệt
đến cởi mở và thông hiệp:
Chính Maccô giải thích: “Như vậy Đức Giêsu tuyên bố mọi
thức ăn đều thanh sạch”. Câu này (không có trong sách bài đọc) chắc chắn gây
nên một cú sốc: “Ngay lập tức, Đức Giêsu tuyên bố những truyền thống nhằm chia
xã hội thành hai khối: người tốt và kẻ xấu theo cách của đạo manichéisme (đạo
thiện ác) là những truyền thống lạc hậu. Theo kiểu phân chia này, một bên là
những người sạch, tức người biệt phái (nghĩa từ này là “những người được tách
biệt ra") và bên kia là những người ô uế, nên tránh, tức những người tội
lỗi. Như vậy, Đức Giêsu vừa thiết lập một xã hội mới. Phần Thiên Chúa, người
thông hiệp với tất cả những ai là nạn nhân của sự phân biệt xã hội và tôn giáo
do chủ trương của phái ‘những người sạch và khắc nghiệt’ tức những người biệt
phái. Ngài ăn uống với những kẻ ô uế, “những kẻ bị loại trừ" (người thu
thuế, đĩ điếm, lính Rôma, v.v.) Chính điều mới mẻ này sẽ xô đổ những ngăn cách
tai hại vào thời Đức Giêsu. (J. Hervieux, "Tin Mừng thánh Maccô",
Centurion, tr. 103)
- Một lời nói rõ ràng và có sức giải phóng dành cho
những người đọc Tin Mừng Maccô ở một thời đại mà Giáo hội sơ khai đang trải qua
những căng thẳng và xung đột giữa những Kitô hữu gốc Do thái và Dân ngoại. J.
Potin nhận xét thêm: “Điều phê phán trên chứng tỏ rằng việc áp dụng giáo huấn
này không dễ dàng, như sách Tông đồ Công vụ đã chứng minh: Phêrô đã phản đối:
Trong đời tôi, không bao giờ tôi ăn những gì nhơ nhớp và ô uế, khi trong thấy
một rổ những loài vật thiên thần mời ông ăn trong giấc mơ (10,14). Nhưng vì
người Do thái và dân ngoại cùng hiện diện đồng bàn trong cộng đoàn Kitô hữu nên
bắt buộc phải bãi bỏ những điều cấm về ẩm thực dành riêng cho người Do thái một
khi chúng không có chiều kích luân lý”. (Sách đã dẫn, tr. 195–196) Qua việc
công tố về sạch và ô uế, Đức Giêsu mở ra con đường của tự do Kitô giáo.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Giới răn của Thiên Chúa và tập tục phàm nhân.
Một cộng đoàn Kitô trẻ trung gặp khó khăn trong đời sống
trước những luật lệ phải bỏ và phải duy trì. Không phải chỉ thời Cựu ước và
trong đạo Do thái người ta mới bị cám dỗ muốn ẩn trốn sau những tập tục và giới
luật để được an tâm. Cũng không phải chỉ ở thời đại chúng ta Kitô giáo mới biết
đến những cám dỗ như thế. Chính Giáo hội sơ khai cũng đã phải trải qua những
cám dỗ này.
Thánh Phaolô chứng minh cho chúng ta thấy những luật lệ
Do thái và sự trong sạch nệ luật gây ra những thái độ cần phải chỉnh đốn. Sách
Tông đồ Công vụ, thư gởi tín hữu Galata, thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô, thư
gởi tín hữu Rôma đều lần lượt ám chỉ đến vấn đề này.
Thư gởi tín hữu Galata cho chúng ta thấy chính Phêrô
cũng do dự trước tình hình nghiêm trọng do phản ứng mạnh của một số người. Ông
dùng bữa chung với người ngoại giáo, nhưng khi một số người thân cận của
Giacôbê từ Giêrusalem đến, ông lẩn tránh mà không dám tiếp xúc với người ngoại
giáo nữa vì sợ những người đã cắt bì. Thấy vậy, một số người Do thái khác cũng
bắt chước ông. Thánh Phaolô đã kịch liệt đả kích thái độ "ỡm ờ" này
(Galata 2,11-14)
Chương 10 trong Tông đồ công vụ thuật lại: trong lúc
Phêrô phải đương đầu với những khó khăn này thì một thị kiến đã dạy ông thái độ
cần có và ông đã vào nhà viên bách quan dù theo luật như chính ông đã biết:
người Do thái bị cấm vào nhà người ngoại giáo.
Một vấn đề khác, đó là việc cắt bì. Một số muốn dân
ngoại khi trở lại phải chịu cắt bì (Ac 15). Chính Phêrô, thủ lãnh của Giáo hội,
cũng cảm thấy khó mà quyết định về những vấn đề này; ông đã can đảm giải quyết
nó nhưng không phải là không phân vân.
Thánh Phaolô cảm thấy cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng
thứ yếu của những tập tục về thức ăn, nên ông viết: “ Thức ăn dành cho bụng và
bụng dành cho thức ăn. Thiên Chúa sẽ hủy diệt cả cái này lẫn cái kia”. (1 Cor.
6,13) Trong thư gởi tín hữu Rôma, về vấn đề này, ông đưa ra một phán đoán rất
quân bình: “ Nước Thiên Chúa không phải chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công
chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần". (14,17)
Tuy nhiên, bằng cách khích lệ là cần phải làm đúng lúc
vì “những người yếu đuối", Phaolô nói tiếp: “Đừng vì một thức ăn mà phá
hủy công trình của Thiên Chúa" (14,20) Tất nhiên mọi thức ăn đều sạch,
nhưng chúng sẽ trở nên sự dữ đối với người ăn chúng mà gây gương mù. Những sự
kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn giáo huấn của thánh Máccô dành cho các tín
hữu của ông"
2. Truyền thống là gì?
"Những người biệt phái trách các môn đệ Đức Giêsu
không rửa tay trước khi ăn", nghĩa là không trung thành với truyền thống.
Nhưng truyền thống là gì?
Trong đạo Do thái, luật bắt buộc các tư tế phải rửa tay
trước khi cử hành phụng vụ (Xh 30,17-21). Các Rabbi biến luật này thành phức
tạp hơn khi thêm vào đó những chi tiết và những giải thích cho rõ ràng hơn.
Đàng khác, họ áp đặt lễ nghi này cho mọi người Do thái
trước khi họ dùng bữa, “lấy cớ là tất cả các bữa ăn đều làm một hành vi tôn
giáo và toàn thể Dân Israel là dân tư tế". Rồi, dựa vào một tiến trình mà
ai cũng biết để biện minh cho những luật lệ này, họ nói rằng chúng có nguồn gốc
từ thời ông Môisen, người đã giải phóng dân tộc. Nên đó là “Truyền thống".
Nhằm phá vỡ tính máy móc của sự khép kín này, cũng như
nhằm tháo bỏ nó khỏi chủ nghĩa hình thức và chủ nghĩa nệ truyền thống khởi đi
từ sự đối lập giữa sạch và ô uế, cái bên trong và ăn ngoài, Đức Giêsu lập luận:
“Không có gì từ bên ngoài trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế
được; chúng chính cái từ con người xuất ra mới là cái làm con người ra ô uế”.
Khi bên ngoài lấn át bên trong, dáng vẻ bề ngoài lấn át
con tim, lễ nghi lấn át ý nghĩa, trình diễn ngoạn mục lấn át nội tâm, tỉ lệ lấn
át tinh thần; thì đó sẽ là điều đồi bại. Bản văn chính thức chúng ta đọc trong
chúa nhật này đã bỏ đi một câu tố cáo sống sượng sự phản bội dưới vỏ bọc của
một truyền thống sai lạc: “Bất cứ cái gì lừ bên ngoài vào trong con người, thì
không thể làm con người ra ô uế được, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào
bụng người ta rồi thải ra ngoài”.
Chỉ có một truyền thống đích thực, đó là dòng chảy từ
con tim của Thiên Chúa đến con tim của con người. Nhưng để dòng chảy lưu thông
thông suốt, đương nhiên cần có những ống dẫn. Những ống này càng mịn màng tinh
tế càng ít cản trở dòng chảy".
3. Đức Giêsu giải phóng chúng ta
“Đức
Giêsu là con người tự do. Ngài giải phóng. Ngài là người con say mê tìm vinh
quang của Cha mình. Ngài bảo vệ các môn đệ chống lại các cuộc tấn công của những
kẻ nệ luật; Ngài bảo vệ giới luật của Thiên Chúa không để chúng bị thay thế bởi
những luật lệ loài người. Đức Giêsu mới gọi chúng ta đi đến tận “tâm
điểm", tức tận trung tâm của con người mà từ đó phát xuất ra những gì là
sạch và ô uế. Ngài kêu mời chúng ta phải lãnh trách nhiệm của chính mình. Ngài
cũng kêu gọi hãy có sự trong sạch của tâm hồn, chứ không phải của đôi bàn tay.
Chính khi làm thế chúng ta ở trong chân lý, không giả hình, không biện minh vụn
vặt cho những chọn lựa nhỏ nhặt của mình, không kết án nhân danh những luật lệ
chính chúng ta nặn ra. Đức Giêsu bắt người ta vừa phải đối diện với chính mình,
với cái “tâm" của mình, vừa phải đối diện với “giới luật của Thiên
Chúa". Đó chính là hai tiêu chuẩn để đo lường sự chính trực. Như vậy, Đức
Giêsu đưa chúng ta trở về với điều cốt yếu nhất và giải phóng chúng ta khỏi ách
nô lệ của những điều vụn vặt, những hình thức bên ngoài...".
0 nhận xét:
Đăng nhận xét