Chúa Nhật 26 Thường Niên
Ngày 30/9/2012
|
Phúc Âm
Máccô
9:38-43,45,47-48
38 Ông Gioan nói với Đức Giêsu : "Thưa
Thầy, chúng con thấy có người lấy danh Thầy mà trừ quỵ. Chúng con đã cố ngăn
cản, vì người ấy không theo chúng ta".
39 Đức Giêsu bảo :"Đừng ngăn cản người ta,
vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau đó lại có thể
nói xấu về Thầy.
40 Quả thật, ai không chống lại chúng ta là ủng
hộ chúng ta.
41 "Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ
anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất
phần thưởng đâu.
42 "Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé
mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống
biển còn hơn.
43 Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt
nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải
sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt.
45 Nếu chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt
nó đi; thà cụt một chân mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị
ném vào hoả ngục,
47 Nếu mắt anh làm cớ cho anh sa ngã, thì móc
nó đi; thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà
bị ném vào hoả ngục,
48 nơi giòi bọ không hề chết và lửa không hề
tắt.
|
Chi
Tiết Hay
·
(c.38) Sự việc một người có thể trừ quỵ bằng
cách dùng danh Chúa chứng tỏ là người ấy nhận ra quyền năng của Chúa Giêsu.
Người đó trừ được quỵ dù "không theo chúng tôi", có nghĩa là họ
không phải là môn đệ của Chúa Giêsu. Ngược lại, trong Tông đồ Công
Vụ(19:13-16) các con ông Sceva dùng danh Chúa mà không trừ được quỵ. Như vậy,
câu 38 muốn nói rằng những người làm việc tốt lành vì danh Chúa Giêsu thì
không thể là kẻ thù của Ngài.
·
(c.42) Chúa dùng hình ảnh nặng nề để cảnh cáo
những người làm gương xấu cho "các trẻ nhỏ đã tin" bị lung lay đức
tin. Cái cối xay người Do Thái thì rất nhẹ, phụ nữ cũng dùng được. Còn cối
xay tròng vào cổ người làm gương xấu thì nặng đến nỗi phải dùng lừa mà kéo.
Bị ném xuống biển là hình phạt của chính quyền Roma, nên dân Do Thái rất ghét
lối trừng phạt này.
·
(c.43) Nguồn gốc của chữ "hỏa ngục"
là từ chữ "Gehenna". Gehenna là một khe suối phía nam thành
Giêrusalem, là nơi trước kia người ta tế thần Moloch (Jer. 7:31) bằng cách
giết trẻ em. Sau này nơi đó được dùng làm hố rác. Gehenna trở thành một nơi
tượng trưng cho hình phạt đời sau.
·
(c.48) Câu "nơi mà giòi bọ không chết, và
lửa không tắt" được trích từ sách Isaiah 66:24. Tiên tri Isaiah muốn nói
về Gehenna; ông dùng hình ảnh giòi bọ trên các của ăn thừa đã vứt ở đây, cũng
như những đốm lửa đốt rác liên tục xảy ra ở đây.
|
Một
Điểm Chính
Chúa Giêsu dạy các môn đệ cách làm nhân chứng cho Ngài.
Chúa khuyến khích lòng khoan dung đối với những người không thuộc về Giáo Hội
của Ngài: "Vì ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Ngược lại, Chúa khuyên khích lòng ghê tởm tội lỗi, bởi tội lỗi đưa con người
vào cõi chết đời đời.
|
Suy
Niệm
1.
Trong cuộc sống hàng ngày, tôi đã làm những
gương xấu nào mà có thể gây ra sự "lung lay đức tin" của người
khác?
2.
Những nguyên nhân nào đưa tôi đến những tội
tôi phạm thường xuyên, những tội tôi cứ phải xưng đi xưng lại trong tòa giải
tội? Tôi đã làm gì để tránh những nguyên nhân này?
|
Lời Chúa: Ds
11,25-29; Gc 5,1-6; Mc 9,38-43.45.47-48
1. Chặt tay.
Ngày xưa có một đoàn thám hiểm từ Âu
châu đi tìm đất mới. Nhà lãnh đạo của họ là một người thích phiêu lưu với số
mệnh, và ông đã tuyên bố: Ai đụng tới đất đầu tiên sẽ được làm chủ toàn thể
lãnh thổ ấy. Một người trong nhóm tên là O’Neil quyết tâm giành được đất mới.
Ông gắng sức chèo, nhưng rồi một chiếc thuyền khác đã vượt qua được ông mà đất
liền thì đã ở ngay trước mặt. Chúng ta có biết ông đã hành động như thế nào hay
không? Con người sắt đá này đã buông mái chèo, rồi nhanh như một tia chớp, ông
cầm lấy chiếc búa, chặt đứt bàn tay trái của mình rồi liệng nó lên bờ. Và như
thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới. Đất mới là của ông.
Kể
lại câu chuyện này, tôi hy vọng chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được lời nói của Chúa
qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Nếu tay con làm cớ cho con phạm tội, thì hãy chặt nó
đi. Thà con cụt một tay mà được vào Nước Trời còn hơn là có đủ cả hai tay mà
phải vào hoả ngục. Đâu là ý hướng Chúa Giêsu muốn nhắm tới? Tôi nghĩ rằng những
người muốn theo Chúa phải sẵn sàng hy sinh cả những cái gần gũi và thân yêu
nhất, khi chúng trở thành dịp tội và làm cho chúng ta vấp ngã. Chúa Giêsu không
nói chúng ta phải thật sự chặt tay, chặt chân hay móc mắt vì đây chỉ là cách
nói nhấn mạnh của Ngài hầu gây một ấn tượng khó quên đối với người nghe: Nước
Trời, miền đất hứa chủa chúng ta, quê hương vĩnh cửu của chúng ta, muốn đạt
được thì phải hy sinh.
Đúng
thế, để chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một số việc vừa quyết
liệt lại vừa đau đớn không kém gì hành động chặt tay và móc mắt. Đối với một số
người thì từ bỏ một vài mối lợi vật chất cũng đau đớn như là cắt đứt một bàn
tay. Nơi khác, Chúa Giêsu lại nói với chúng ta: Nếu chúng ta cho kẻ đói được
ăn, kẻ khát được uống, kẻ không nhà được trú trọ thì chúng ta sẽ chiếm được
Nước Trời. Hy sinh để cứu giúp họ, hy sinh để nâng đỡ những hoạt động truyền
giáo của Hội Thánh, để làm đẹp lòng Chúa và chiếm lấy Nước Trời có thể cũng đớn
đau như cưa đứt một ống chân. Với một người nghiện rượu thì bỏ đi một xị hay
chỉ một ly mà thôi, ắm lúc cũng thật là khổ sở, nhưng vì vui lòng Chúa, anh ta
phải bỏ. Chúng ta thường thích nằm ngủ nướng hơn là đi lễ sáng Chúa nhật. Cố
gắng để vượt thắng tính lười biếng có thể gây phiền phức và khó chịu ở một mức
độ nào đó, nhưng lại là phương cách để chiếm lấy Nước Trời. Ngồi theo dõi
truyền hình thì dễ dàng hơn là cầu nguyện hay đọc Kinh Thánh. Thưa chuyện với
Chúa là một ân huệ lớn lao, là một niềm vui tuyệt vời, nhưng nó là đòi hỏi
chúng ta phải cố gắng cắt bỏ một khoảnh khắc giải trí hay nói chuyện tào lao
với nhau.
Chúa
Giêsu không phải chỉ chặt tay móc mắt, trái lại Ngài còn hiến dâng trọn vẹn
mạng sống và đã đổ ra cho đến giọt múa cuối cùng để cứu chuộc chúng ta. Vì thế
chúng ta hãy xin Chúa ban sức mạnh để chúng ta biết từ bỏ, hầu nhờ sự từ bỏ này
chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời, miền đất hứa của chúng ta. Hay nói các khác,
Thiên Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tâm hồn và trong cuộc đời chúng ta, để rồi
chúng ta có thể nói lên như Tổng lãnh Thiên Thần Micae: Ai bằng Thiên Chúa.
2.
Óc bè phái.
Có một vị linh mục, ngày kia đã giảng
một bài rất cảm động, khiến cho mọi người đều rơi lệ. Thế nhưng, có một người
ngồi ngay ở hàng ghế đầu lại chẳng hề tỏ ra chút xúc động nào cả. Khi thánh lễ
kết thúc người ta đã hỏi: Ông có nghe bài giảng đấy chứ. Người đàn ông trả lời:
Dĩ nhiên là có và tôi đã nghe rõ lắm. Vậy thì ông nghĩ sao? Bài giảng thật cảm
động đến nỗi tôi rưng rưng như muốn khóc. Xin lỗi ông nhé, thế tại sao ông lại
không khóc. Người đàn ông trả lời: Đơn giản thôi, vì tôi không thuộc giáo xứ
này.
Câu
chuyện trên làm cho chúng ta liên tưởng tới óc phe nhóm và tinh thần bè phái
của các môn đệ, được biểu lộ qua thái độ của Gioan. Thực vậy, ông không thể
chấp nhận được chuyện một người không theo Chúa, không thuộc về phe mình, mà
lại dám lấy danh Thầy để trừ quỷ, và họ đã làm được.
Tên
của Chúa có thể dùng để trừ được quỷ. Tên ấy có một sức mạnh, nhưng đối với
Gioan, thì chỉ những người trong nhóm môn đệ của Chúa mới có quyền xử dụng sức
mạnh ấy. Chính vì thế, chẳng riêng gì Gioan, mà ngay cả nhóm môn đệ, đều cố sức
ngăn cản người ấy trừ quỷ nhân danh Chúa Giêsu. Họ muốn giữ độc quyền. Họ muốn
bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm. Nếu như ai cũng lấy danh Chúa mà trừ quỷ
thì các môn đệ của Chúa đâu còn thế giá gì nữa. Chúng ta không biết các ông đã
làm những gì để ngăn cản người ấy, còn Chúa Giêsu thì sao? Ngài đã không chấp
nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái
nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.
Chắc
hẳn anh ta không phải là kẻ thù của nhóm hay của bản thân Ngài. Vì không ai lấy
danh Thầy mà làm phép lạ rồi sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Hẳn anh ta phải có
một niềm tin nào đó vào Ngài, cho dù anh ta không phải là môn đệ chính thức
trong nhóm. Như thế chúng ta phải chấp nhận có những môn đệ theo sát Chúa Giêsu
và cũng có những môn đệ theo Ngài xa xa, nhưng trái tim họ thì lại rất gần
Ngài.
Các
môn đệ đã thấy kẻ thù ở khắp mọi nơi, vì ai không ủng hộ các ông đều là kẻ thù
của các ông. Còn Chúa Giêsu thì khác, Ngài hiền lành và bao dung, nên Ngài có
nhiều bạn hữu. Thái độ cởi mở của Ngài khiến chúng ta phải nhìn lại sự khép kín
và độc đoán của mình. Chúng ta không nên vạch một đường thật rõ để tách biệt
những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Chúng ta
sẽ có nhiều bạn hơn chúng ta tưởng. Cùng bước đi với người khác, chúng ta sẽ có
nhiều cơ may để giới thiệu Đức Kitô cho họ, một Đức Kitô mà có thể họ đã mang
lấy trong trái tim từ lâu rồi, nhưng chưa một lần gọi tên Ngài trên môi. Thái
độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng
đạo đức chân thật. Đó cũng là thái độ của kẻ hèn nhát và khiếp đảm.
Hơn
thế nữa, Công đồng luôn khuyến khích chúng ta thực hiện: Hãy mở ra với thế giới,
hãy mở ra với các anh em Kitô hữu khác, cũng như hãy mở ra với những người chưa
tin Đức Kitô. Bởi vì, mặt trời công chính chiếu soi trên mọi người và cho mọi
người. Lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn hoạt động giữa các dân tộc.
3.
Làm cớ sa ngã.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Chúng
ta sống trong một thế giới có nhiều gương xấu. Gương xấu lan nhanh nhờ các
phương tiện truyền thông, tạo nên một bầu khí ô nhiễm thấm vào buồng phổi. Ngay
trong Hội Thánh cũng có kẻ gây gương xấu, khiến cho đức tin một số người gặp
khủng hoảng. Đức Giêsu tỏ thái độ không khoan nhượng đối với kẻ này: "...
thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn."
Có
thể chúng ta đã ít nhiều gây gương xấu. Cha mẹ làm ăn bất chính khiến con cái
mất niềm tin. Nhà tu hành mê say vật chất khiến tín hữu thất vọng. Những phe
phái chia rẽ khiến giới trẻ nghi ngờ tình yêu.
Có
biết bao duyên cớ đẩy đưa một người sa ngã. Nhiều khi chúng ta, vì vô tình hay
thiếu khôn ngoan, không biết hạn chế tự do của mình, nên đã làm tổn thương
lương tâm của những người yếu đuối.
Tôi có thể gây dịp tội khiến anh em tôi sa
ngã, nhưng chính thân xác tôi lại có thể là dịp tội cho tôi.
Đức
Giêsu đòi ta chặt tay, chặt chân, móc mắt, nếu những bộ phận đó làm ta phạm
tội. Hội Thánh không bao giờ hiểu đòi hỏi này theo nghĩa đen (nếu thế thì khó
mà có một Kitô hữu lành lặn!). Nhưng chúng ta lại không được coi thường tính
chất mạnh mẽ và quyết liệt của đòi buộc này.
Chẳng
ai trong chúng ta ngạc nhiên nếu thấy có người dám chịu cắt bỏ một phần thân
thể hầu cứu lấy sinh mạng của mình. Người khôn là người dám từ bỏ một điều quý
để giữ lại một điều quý hơn.
Chỉ
ai coi cuộc sống vĩnh cửu là điều quý nhất, người ấy mới dám hy sinh mắt và tay
chân, những gì vốn là tốt, nhưng nay lại thành vật cản trở. Có bao điều thiết
thân, gắn liền với đời ta, nhưng nay đã trở thành vật cản trở. Cả những điều
ấy, ta cũng phải cắt đứt, đoạn tuyệt.
Chấp
nhận đoạn tuyệt là chấp nhận đớn đau. Bỏ một tật xấu, một thói quen, một kế
hoạch có khi còn đau hơn móc mắt hay chặt tay. Nếu chúng ta can đảm thắng vượt
nỗi đau, chúng ta sẽ được tự do thanh thoát.
Nếu
cần một cuộc giải phẫu cho linh hồn. Giải phẫu không phải chỉ là cắt bỏ, mà còn
là thay thế: thay ước muốn nơi trái tim, thay lối nghĩ nơi bộ óc, thay cái nhìn
nơi đôi mắt, thay cách hành động nơi tay.
Đức
Giêsu đưa ra những đòi hỏi tận căn. Để vươn tới Tuyệt Đối thì cần hy sinh cái
tương đối. Ước gì chúng ta ra khỏi thái độ lấp lửng, nửa vời, và dứt khoát chọn
Thiên Chúa là Tuyệt Đối.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Theo
ý bạn, đâu là những gương xấu mà giới trẻ hôm nay chịu ảnh hưởng (nơi gia đình,
trường học, giáo xứ, xã hội)? Những gương xấu đó đã tác hại thế nào trên giới
trẻ?
·
Bạn
có kinh nghiệm gì về việc "chặt bỏ" một tật xấu, một thói quen, hay
việc "cắt đứt" một liên hệ nguy hiểm? Bạn có thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa thật là một thách đố
cho con.
Chúa
đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa
thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa
thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa
cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin
cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống
theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt. Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con
tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ
lâu. Amen.
4.
Quyết liệt dứt khoát với tội lỗi.
(Suy niệm của
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
Nếu
mỗi chi thể phạm tội đều phải bị cắt bỏ, chắc chắn không một ai lành lặn. Không
thể hiểu theo nghĩa đen những lời Đức Giêsu nói hôm nay. Tuy nhiên cũng không
được loại trừ tính chất quyết liệt của những lời đó. Đức Giêsu bảo ta phải chặt
tay, chặt chân, móc mắt khi những chi thể này phạm tội, có nghĩa là phải quyết
liệt với sự xấu.
-
Phải
quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như căn bệnh hay lây.
Đã nhiễm vào một phần thân thể, sẽ nhanh chóng lây lan tới cả cơ thể. Lây lan
đến đâu làm độc đến đấy. Phải ngăn chặn ngay từ đầu, nếu không sẽ khó mà cứu
vãn được mạng sống.
-
Phải
quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như nọc độc loài thú dữ.
Đã vào mạch máu sẽ mau chóng tràn vào tim. Khi chất độc đã ngấm đến tim, sẽ làm
tê liệt mọi hoạt động của cơ thể, sẽ cướp đi mạng sống con người.
-
Phải
quyết liệt dứt khoát với sự xấu. Vì sự xấu giống như loại thuốc mê.
Một khi để sự xấu nhiễm vào, người ta sẽ mất khả năng chống cự. Sự xấu làm cho
con người ra nhu nhược yếu hèn, làm tê liệt ý chí phấn đấu. Để cho sự xấu xâm
nhập, nó sẽ thống trị ta, sẽ bắt ta làm nô lệ. Một khi đã rơi vào ách nô lệ sự
xấu, con người khó lòng thoát ra.
Quyết
liệt dứt khoát với sự xấu cũng giống như chặt tay, chặt chân, móc mắt, nghĩa là
phải sẵn
sàng chịu đau khổ, Dứt khoát với tội lỗi không dễ. Tội lỗi khi đã thấm
vào người, nó trở nên như một phần bản thân, gắn bó với bản thân. Dứt bỏ cũng
đau đớn như chính cơ thể bị chặt bỏ, xé lìa. Ta hãy xem người cai nghiện. Cơn
nghiện vật vã dày vò tưởng chết đi được. Vì đối với người nghiện, ma túy trở
thành một phần thiết thân của đời sống đến nỗi khi phải dứt lìa họ đau đớn khổ
sở như phải tách lìa một phần thân thể, như đánh mất chính sự sống.
Chặt
tay, chặt chân, móc mắt cũng có nghĩa là dứt lìa với những người, những nơi, những đồ
vật khiến ta phạm tội. Những con người, những đồ vật, những nơi chốn đó
trở thành một phần đời của ta. Để dứt bỏ, trái tim ta đau đớn đến rướm máu.
Cuộc dứt bỏ làm tâm hồn ta như bị thương tích đau đớn vô cùng. Cũng như người
bệnh phải chịu phẫu thuật, cắt bỏ khối u, cắt bỏ phần thân thể nhiễm độc để bảo
toàn mạng sống, Chúa bảo ta phải quyết liệt với tội lỗi, phải chặt tay, chặt
chân, móc mắt không phải vì muốn hành hạ ta, muốn ta phải đau khổ. Trái lại
chính vì yêu thương ta, muốn ta được hạnh phúc mà Chúa dạy
ta phải dứt khoát với tội lỗi.
Dứt
bỏ tội lỗi là dứt bỏ những phần hư hỏng xấu xa, nhiễm bệnh trong cơ thể. Dứt bỏ
tội lỗi là ngăn ngừa không cho sự xấu xâm nhập vào linh hồn. Dứt bỏ sự xấu là
ngăn chặn sự độc hại tàn phá linh hồn. Dứt bỏ tội lỗi là giúp linh hồn có cơ
hội được lớn mạnh, được phát triển. Ham vui một chốc lát để rồi chịu kết án
suốt đời khổ sở. Hay là chịu đau khổ một chốc lát để suốt đời được tự do hạnh
phúc. Ta chọn đàng nào? Chắc chắn ta phải chọn con đường hạnh phúc lâu dài.
Chính Chúa muốn hạnh phúc cho ta, nên đã truyền cho ta phải dứt khoát với tội
lỗi để được hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa. Lạy Chúa, xin cho con biết nghe
lời Chúa dạy, biết dứt khoát với tội lỗi, để được sống đời đời với Chúa. Amen.
5.
Một dân tộc ngôn sứ – Jean Yves Garneau.
Sự
dữ bị tố cáo.
Lời
Chúa hôm nay thật là khắt khe. Thánh Giacôbê tỏ ra không khoan nhượng đối với
những người giàu có: “Hãy khóc than… tai họa chờ đợi các ngươi đó. Của cải các
ngươi bị mục nát…” Những lời thánh nhân mô tả gây ấn tượng mạnh mẽ, liệu ngài
có nói khác đi vào thời đại chúng ta không? “Các ngươi không trả tiền công cho
người gặt lúa. Các ngươi tìm kiếm lạc thú và sự xa hoa, các ngươi tiệc tùng
trong lúc người ta chém giết kẻ khác…”.
Tin
Mừng cũng gắt gao như vậy khi đòi hỏi ta phải dùng những phương thế quyết liệt
để thoát khỏi sự dữ: “Nếu tay ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy chặt nó đi…
Nếu mắt ngươi khiến ngươi phạm tội thì hãy móc nó đi…”.
Cám
dỗ để mặc.
Nơi
chúng ta và ngoài chúng ta, trong đáy lòng chúng ta và trong xã hội vẫn có sự
dữ và tội lỗi. Ta biết thế, ta nhận thấy thế, ta nghe nói đi nói lại như thế.
Và ta có khuynh hướng là đành chịu vậy thôi. Ta sẽ nói: “Không làm gì được đâu.
Bao giờ cũng thế mà, ta không thay đổi được thế giới đâu”. Rồi một khi đã nói
như vậy rồi, người ta đồng lõa với một thế giới tầm thường và quen đi với chính
sự tầm thường của mình nữa. “Tôi không đến nỗi tệ hơn kẻ khác. Có những người
còn dở hơn tôi nữa. Tôi quá già rồi thay đổi sao được, phải chấp nhận con người
mình như vậy thôi, và chấp nhận thế giới như hiện có”.
Những
ngôn sứ không được tín nhiệm.
Nhưng,
may mắn thay, không phải mọi người đều phản ứng như vậy, không phải mọi người
đều cam chịu cả. Ở giữa chúng ta vẫn còn có những ngôn sứ đang kêu gào, tố cáo,
răn đe. Họ không chỉ nói mà thôi –điều này thường quá dễ– họ hành động nữa. Họ
dám chịu liên lụy với những kẻ không được kính trọng, những kẻ chịu thiệt thòi
về quyền lợi của mình, bị ngược đãi. Họ đấu tranh chống lại sự dữ chung quanh
và sự dữ nơi chính mình.
Ta
thấy đó, đây là lịch sử được lập lại. Trong đoạn sách dân số, người ta nói với
chúng ta về hai người: Eldad và Médad, nói tiên tri trong lúc những ngôn sứ
khác đã ngưng nói. Người ta tìm cách bắt họ im đi ngay. Họ không nói đúng lúc,
họ không theo luật lệ đã được thiết lập. Họ xáo trộn hết thảy mọi sự.
Một
biến cố tương tự được kể lại trong Tin Mừng: “Thưa Thầy, chúng con thấy có
người trừ quỷ nhân danh Thầy; Chúng con đã ngăn cản nó vì nó không thuộc nhóm
chúng ta”.
Môsê
và Chúa Giêsu có cùng một phản ứng như nhau: “Hãy để các ngôn sứ nói tiên tri.
Hãy để họ nói. Hãy để họ hành động”.
Ta
hãy xem những kẻ nói hơi mạnh một chút trong môi trường của chúng ta, họ tố cáo
những sự hèn nhát của chúng ta, làm xáo trộn những tư tưởng chúng ta đã nhận
được, làm cho chúng ta hoang mang, bắt chúng ta phải ra khỏi những lối suy tư
và ứng xử của chúng ta. Những ngôn sứ này có thể là con cái, người phối ngẫu,
một người láng giềng, một bạn đồng nghiệp của ta. Chúng ta dành cho họ số phận
nào? Chúng ta có nhạy cảm trước lời kêu gọi của họ không?
Nhiều
ngôn sứ.
Cứ
để cho các ngôn sứ nói tiên tri, nâng đỡ, khuyến khích họ và để họ thách thức
mình, đó là thái độ nên có. Nhưng xem ra còn phải làm hơn nữa. Chúng ta có nhớ
lời ước mong của Môsê không: “Ôi! Ước gì Chúa có thể đặt Thần Khí của Ngài nơi
họ “hết thảy” để làm cho toàn thể dân Ngài trở thành một dân ngôn sứ!”.
Cần
có những ngôn sứ trên thế giới, trong Giáo Hội, trong các cộng đồng giáo xứ,
trong các gia đình. Cần có những người đàn ông và đàn bà trẻ tuổi hoặc cao niên
nói và hành động thế nào để khắp nơi trên thế giới mọi người được mời gọi và
khuyến khích đẩy lui những gì làm cho con người mất tính người và làm tăng
trưởng những gì giúp họ nên người hơn. Cần tăng số –ngày càng đông hơn- những
ngôn sứ để nói tiên tri làm vinh danh Thiên Chúa và gây ích cho con người. Trở
thành một cộng đoàn các ngôn sứ, chúng ta có dám thành thật xin Chúa điều này
không?
6.
Mẹ của sự khám phá – Charles E. Miller.
(Trích trong
‘Mở ra những kho tàng’)
Phải
nói rằng nhu cầu là mẹ của sự phát minh. Khi kỷ nguyên kỹ nghệ hóa bắt đầu làm
cho nhu cầu ánh sáng trở nên tốt hơn là những cây nến hoặc cây đèn dầu và
Thomas Edison đã phát minh ra bóng đèn điện. Nhu cầu là mẹ của sự phát minh.
Trong Giáo Hội nhu cầu là mẹ của sự khám phá, đó là một sự khác nhau. Chúng ta
có thí dụ trong bài đọc một.
Khi
Môisê nhận thấy dân Israel ở nơi hoang địa đã trở thành quá đông số, quá sức
chăm sóc của ông, ông đã phàn nàn với Chúa về gánh nặng của mình. Chúa đã nói
với ông hãy thành lập một hội đồng bô lão gồm có bảy mươi bô lão để giúp vào
việc cai trị. Trên họ, Thiên Chúa sẽ gởi xuống tinh thần của Môisê, điều có
nghĩa là Thiên Chúa muốn chia sẻ quyền lực và sức mạnh của Môisê cho họ. Bởi
nhu cầu, Môisê đã khám phá ra mình không thể làm tất cả mọi chuyện tự sức mình.
Thiên Chúa muốn cho những người khác chia sẻ sứ vụ của ông trong việc hướng dẫn
và chăm lo cho dân.
Khổ
thay, Giosuê đã không hiểu kế hoạch của Thiên Chúa và có một lúc ông đã không
lớn đủ để sẵn lòng chia sẻ tinh thần của Môisê với Eldad và Medad, là những
người đã không hiện diện khi tinh thần ấy ngự xuống trên những người khác. Một
điều gì đó quen thuộc đã xảy ra với Chúa Giêsu và các tông đồ. Chúa Giêsu đã
chia sẻ sứ vụ của Ngài với các tông đồ nhưng khi Gioan thấy một người đàn ông
không phải là một trong nhóm Mười Hai mà lại dùng danh Giêsu để xua đuổi quỷ,
nên oán hận giống như Giosuê đã làm. Tuy nhiên Chúa Giêsu đã không bị điều
khiển bởi ganh tỵ. Ngài đã vui mừng vì sứ vụ của Ngài đã được lan rộng.
Trong
Giáo Hội ngày hôm nay, nguyên tắc của nhu cầu là mẹ của sự khám phá vẫn được
tiếp tục. Bởi vì các phong trào bên trong Công Đồng Vatican II, các Giáo hoàng
và các giám mục đã luôn luôn nhớ rằng, Thiên Chúa ngay từ kỷ nguyên đầu đã ban
cho Giáo Hội một thừa tác vụ, được biết như là phó tế. Đó cũng là một hình thức
khám phá, bởi nhu cầu của cộng đoàn. Trước Công Đồng Vatican II chỉ một mình vị
linh mục mới được cho rước lễ, (ngay cả thầy sáu chủng viện cũng cần có phép
đặc biệt). Sau Công Đồng, số những người Công giáo rước lễ tăng lên rất nhiều,
Giáo Hội khám phá ra rằng những giáo dân có thể trở thành những thừa tác viên
đặc biệt cho rước lễ và một chức thừa tác đã được cho phép bởi Thiên Chúa và
làm hài lòng Ngài. Trước Công Đồng Vatican II linh mục đã làm mọi chuyện trong
Thánh Lễ, gồm cả việc đọc Thánh Kinh, nhưng sau khi trở lại với truyền thống,
Giáo Hội mới khám phá ra rằng, từ xa xưa những thừa tác giáo dân cũng được biết
như là những người đọc sách thánh.
Khổ
thay, một số người trong chúng ta giống Giosuê và Gioan, chúng ta kháng cự lại
sự khám phá. Chúng ta có thể oán hận bởi vì người đàn ông có vợ rồi vẫn có thể
được truyền chức phó tế. Chúng ta cũng bực bội bác bỏ ý kiến về những thừa tác
đặc biệt cho rước lễ và nhấn mạnh rằng họ chỉ được quyền trao Thánh Thể cho
những trường hợp đặc biệt. Một số người khác trong chúng ta lại không thể chịu
được những sự kiện, như là phụ nữ đọc Thánh Kinh trong Thánh Lễ.
Bởi
vì nhu cầu mang ánh sáng lan tỏa trong Giáo Hội ngày hôm nay, ánh sáng đã được
chiếu sáng hơn phát minh của Thomas Edison. Đó cùng là ánh sáng của Thánh Thể
chiếu sáng trên chân lý để cho Giáo Hội thấy sáng tỏ hơn. Trong Thánh Vịnh nơi
bài đáp ca, chúng ta đón nhận Thiên Chúa đã ban niềm vui cho trái tim. Đó là sự
thật trao ban cho trái tim của chúng ta, để chúng ta mở rộng cho sự thúc đẩy
của Thánh Thể trong Giáo Hội ngày hôm nay. Không nên phàn nàn về những thừa tác
viên trong phụng vụ, chúng ta phải cám ơn Chúa và cầu xin cho ân sủng tuôn trào
nơi Thánh Thần của Người sẽ tiếp tục ban xuống trên Giáo Hội.
7.
Suy niệm của Achille Degeest.
THỜI
ĐẠI CHÚNG TA CÓ ĐÁNG BỊ TRÒNG CỐI ĐÁ VÀO CỔ KHÔNG?
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’).
Các
thánh chép sử không chủ tâm làm những bản tường thuật chính xác, đầy đủ về
những lời Chúa Giêsu giảng dạy. Các ông truyền lại cách chính xác cho chúng ta
giáo huấn của Thày tùy theo những điều nhớ được và tùy những lúc lưu tâm ghi –
chép, nhưng theo thứ tự và cách sắp đặt không tuyệt đối đúng sự thật. Dường như
thánh Marcô thuật lại trong bài đọchôm nay những đoạn rời rạc của một bài giảng
của Chúa, chúng ta không sao hiểu được toàn bài như thế nào. Những đề mục gợi
ra rất khác biệt, có thể là đề tài cho những công trình bình giải đi vào chi
tiết. Về phần chúng ta, chỉ cần giữ lấy 2 chủ đề suy niệm gợi ý chúng ta về hai
cung cách trong số nhiều cung cách khác, để biểu lộ niềm tin vào Chúa Giêsu
trong đức ái thực tế.
1) Chúa không muốn các môn đệ đối lập
với một người tuy không gia nhập nhóm các ông, nhưng nói và hành động nhân danh
Ngài.
Ta
thấy rằng Chúa phân biệt giữa sứ mệnh đặc biệt của nhóm Tông đồ và hiệu năng
tỏa rộng của đức tin. Tông đồ Gioan bất bình thấy một người lấy tên Chúa mà
hành động tuy không được chính thức nhìn nhận là 1 trong nhóm 12. Thày phản
ứng, cho họ biết rằng muốn làm môn đệ hoạt động thì không bắt buộc phải ở trong
tập đoàn Tông đồ Diễn giải Lời Chúa, ta thấy điều này có nghĩa tương tự như
sau: hàng Giáo phẩm mà sứ mạng đặc biệt là bảo đảm đức tin, có bổn phận tôn
trọng tính tự phát của Chúa Thánh Thần trong mỗi người đã chịu Phép Rửa. Hàng
Giáo phẩm có thể và có bổn phận xem xét tính chất đích thật của sự tự phát này
và phải vui mừng về tính sinh động của đức tin xuyên qua mọi tín hữu.
Mở
rộng viễn tượng ra, người ta có thể dẫn chứng tư tưởng sau đây được Công đồng
Vaticanô II nhấn mạnh: Giáo hội vui mừng được nhìn thấy bất cứ hoạt động nào
trong thế giới phù hợp với Phúc âm, dù cho hoạt động ấy không xuất phát từ
thiên chức của Giáo hội. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI không quân phát biểu tư tưởng
đó mỗi lần. Ngài tiếp kiến đại sứ một nước không theo Kitô giáo.
Liệu
chúng ta có chấp nhận không giữ độc quyền tuyệt đối về Phúc âm không? Có những
người gần gũi Phúc âm tuy không biết Phúc âm – trong khi có những Kitô hữu bất
trung biết rõ Phúc âm mà lại xa cách Phúc âm.
2) Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một trẻ
trong các trẻ nhỏ này...
Những
ai là ‘trẻ nhỏ’ Chúa nói đến ở đây? Chúa nghĩ đến em bé mà Cháu đem ra làm tấm
gương thiêng liêng. Người cũng nghĩ đến nhóm môn đệ thiếu sáng suốt, khiêm
nhường, quảng đại nhưng ít học, có xu hướng tự nhiên theo gương các lãnh đạo.
Cấp lãnh đạo phải giữ mình sao cho đừng nên cớ cho họ vấp phạm, tức là đừng có
trở thành dịp cho họ lầm lạc hay phạm tội.
Vấn
đề trên đang rất hợp thời.
Nói
chung, rất nhiều nhà ‘chế tạo dư luận’dẫn dắt chúng xa lìa chân lý và sự thanh
khiết của Phúc âm.
Nói
riêng, trong Giáo hội có những nhà viết sách báo và đôi khi cả những nhà tìm
tòi nghiên cứu không cư xử như người có ý thức trách nhiệm. Cách khinh xuất, họ
gieo rắc những nghi ngờ vào những tâm trí thiếu chuẩn bị, do đó làm suy yếu đức
tin và quá nhiều phen giết chết đức ái. Vì họ thiếu một tình thương tạm đủ, cái
cối đá Chúa gợi ý, đáng lẽ khiến họ phải hồi tâm.
8.
Tinh thần đại kết.
(Trích trong
‘Niềm vui chia sẻ’)
Cha Anthony De Mello, một linh mục Ấn
Độ, Dòng Tên, chuyên về huấn luyện tu đức, đã tưởng tượng câu chuyện “Chúa
Giêsu đi xem bóng đá” (trong tập truyện “Bài ca của loài chim” The Song of
Bird) như sau: “Nghe Đức Giêsu than phiền là Ngài chưa một lần nào được xem một
trận bóng đá, chúng tôi liền đưa Ngài đến xem một trân đấu rất gay go giữa hai
đội tuyển Tin Lành và Công Giáo. Khi đội Công Giáo làm bàn trước 1-0, Đức Giêsu
hoan hô vang dội và tung cả mũ lên trời. Vài phút sau, trong một đợt phản công
đẹp mắt, đội Tin Lành đã gỡ một đều (1-1), Đức Giêsu cũng reo hò và tung mũ lên
trời. Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu,
ông ta hỏi Ngài:
- Này ông bạn, ông ủng hộ bên nào?
Chúa Giêsu trả lời trong khi mãi mê theo dõi trận đấu: “Tôi à? Ồ, tôi không ủng
hộ bên nào cả. Tôi đến đây là để thưởng thức trận đấu mà thôi”. Người khán giả
tỏ vẻ khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu lại bực hội hơn, ông quay sang người
bên cạnh và nói nhỏ: “Hắn ta là một tên vô thần!”
Trên đường về nhà, chúng tôi nói với
Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, những người có tôn giáo thật là buồn cười, họ tưởng rằng
Chúa chỉ đứng về phía họ và chống lại tất cả nhưng ai không thuộc về tôn giáo
của họ”. Chúa Giêsu gật đầu tỏ ý đồng tình. Ngài bảo: “Đó là lý do tại sao tôi
không ủng hộ đội tuyển Tin Lành hay đội tuyển Công Giáo, mà chỉ ủng họ các cầu
thủ thôi, dù họ thuộc bất cứ đội tuyển nào”.
Câu
chuyện này tuy là tưởng tượng, nhưng nó mang sứ điệp của Tin Mừng hôm nay. Số
là có người không thuộc về Nhóm Mười Hai Tông Đồ đã nhân danh Chúa Giêsu mà trừ
quỷ. Thấy thế, ông Gioan đã ngăn cản người ấy. Tưởng là có công lớn, ông đem
khoe với Chúa Giêsu. Nhưng ông không ngờ trước phán quyết của Chúa: “Đừng ngăn
cản người ta làm gì! Vì không có ai nhân danh Thầy mà làm phép lạ, rồi ngay sau
đó lại có thể nói xấu Thầy. Ai không chống đối chúng ta là ủng hộ chúng ta”.
Vào
thời ông Môisê cũng thế. Khi ông Giôsuê muốn dành độc quyền nói tiên tri cho
nhóm bẩy mươi vị Kỳ Mục, đã xin Môisê ngăn cản hai ông Elđát và Mêđát nói tiên
tri. Nhưng ông Môisê đã trả lời: “Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần
Khí trên toàn dân của Người để họ đều làm ngôn sứ!”(Bđ. 1).
Cả
hai câu trả lời thật đáng giá, vì chính thức lên án một tấm lòng hẹp hòi, một
khối óc cục bộ. Làm sao người ta có thể nói tiên tri, có thể trừ quỷ, nếu không
thuộc về Chúa, không do Chúa ban. Thái độ khép kín, phe nhóm như thế không đúng
tinh thần cởi mở của Chúa Giêsu. “Thần Khí muốn thổi đâu thì thổi”, “đừng dập
tắt Thánh Thần”. Không phải chỉ có Giôsuê của thời Môisê hay Gioan của thời
Chúa Giêsu, mà Giáo Hội cũng đã nhiều lần muốn bảo vệ cái độc quyền nhân danh
Đức Chúa của mình. Lịch sử Giáo Hội cũng là một chuỗi biến cố đau thương làm
cho những trang sử của Giáo Hội mất đi vể trong sáng. Con người luôn bị cám dỗ
áp đặt cho chính Thiên Chúa cái suy nghĩ hẹp hòi của chính mình, Cộng Đồng
Vatican II đã đánh dấu một trang sử mới của Giáo Hội về chính mình, về thế
giới, về những tôn giáo khác, về những người không tin. Không còn là thái độ
lên án, khinh thường miệt thị nữa, mà là một thái độ trân trọng thực sự và đối
thoại chân thành. Từ thái độ tự cao tự đại, tưởng mình độc quyền chân lý chuyển
sang thái độ khiêm tốn biết giới hạn của mình, đồng thời nhìn ra cái chân, cái
thiện, cái mỹ nơi người khác, nơi các dân tộc khác, trong các nền văn hoá khác.
Cuộc
“hoán cải” lịch sử ấy vẫn đang tiếp diễn trong lòng Giáo Hội, đặc biệt trong
những năm chuẩn bị bước sang Thiên Niên Kỷ Thứ Ba. Trong Tông thư “Tiến Tới
Thiên Niên Kỷ Thứ Ba” (10/11/1994). Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã kêu gọi
“Giáo Hội phải ý thức sâu sắc trách nhiệm về tội lỗi của con cái mình, khi hồi
tưởng lại trong lịch sử những lạc xa Thánh Thần của Đức Kitô và Tin Mừng… Giáo
Hội không thể bước qua ngưỡng cửa của Thiên Niên Kỷ mới mà không thối thúc con
cái mình thanh luyện trong sự sám hối về những lỗi lầm, bất trung, chia rẽ, trì
trệ… (số 34). “Trong số những tội lỗi đòi hỏi phải có một nỗ lực sám hối và
hoán cải đặc biệt hơn, hiển nhiên phải kể đến những tội phá hỏng sự hiệp nhất
mà Thiên Chúa muốn có nơi dân của Ngài. Qua những ngàn năm đã qua, kể cả ở ngàn
năm thứ nhất, mối hiệp thông Giáo Hội “đôi khi bởi lỗi lầm của thành phần này
hay thành phần khác” đã bị xé rách một cách đau đớn, điều đó rõ ràng đi ngược
lại với ý muốn của Đức Kitô và là một cớ vấp phạm cho thế giới” (số 34).
Người
môn đệ Đức Kitô phải có trái tim rộng lớn, cởi mở như Thầy, sẵn sàng bắt tay
hợp tác với mọi người và mời gọi mọi người cộng tác vào những việc tốt, việc
hữu ích cho con người, cho xã hội, không hạn chế, không loại trừ hay cấm cản
ai, nhất là những người thành tâm thiện chí. Tinh thần quảng đại của Đức Kitô
không cần biên giới, không chấp nhận bị ràng buộc trong một phe nhóm, một tổ
chức nào. Tinh thần đó phải vượt lên trên mọi khác biệt, vì “Thần Khí Chúa được
ban cho mọi người không phân biệt ai”. Ở đất nước ta đã không thiếu những hình
ảnh của các tăng ni phật tử bên cạnh các linh mục, tu sĩ nam nữ, các Kitô hữu
để làm công tác từ thiện bác ái, thăm viếng bệnh nhân, chăm sóc các cô nhi quả
phụ, xóa đói giảm nghèo… Có gì tuyệt cho bằng chân lý yêu thương của Đức Kitô
được mọi người anh em Phật Giáo, Khổng Giáo, Tin Lành, Cao Đài, Công Giáo cùng
nhau chia sẻ và phấn đấu thực hiện cho bằng được: “Phàm ai hoạt động trong đức
ái là đã thuộc về Đức Kitô” (x.Mc 9,41). Bởi vì bất cứ người tốt việc tốt từ
đâu, ở phía nào, cũng đều được Chúa chấp nhận. Bất cứ hành động công bằng nào,
công việc bác ái thương người nào, đều sẽ được Chúa thưởng công, dù chỉ một ly
nước mát, một nụ cười tươi: “Ai cho anh em uống một ly nước vì lẽ anh em là
người của Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng
đâu”. Ngược lại, Chúa cũng không làm ngơ trước một hành động xấu, gây cớ cho
người nào vấp phạm sa ngã phạm tội, làm điều gian ác. Hơn nữa, chính bản thân
mình cũng phải cương quyết dứt khoát từ chối đi theo con đường tội ác, tránh xa
dịp tội. Chúa bảo ai làm gương xấu cho kẻ khác vấp phạm thì “thà buộc cối đá
lớn vào cổ mà quăng xuống biển còn hơn”. Chúa còn dùng kiểu nói cường điệu:
“chặt tay, cưa chân, móc mắt”, nếu những chi thể quý báu ấy nên cớ cho mình vấp
phạm để mất sự sống đời đời, vì “thà cụt tay, què chân, mù mắt còn hơn là phải
vào hỏa ngục đời đời”. Lý do là giá trị tuyệt đối của sự sống đời đời.
Chúng
ta đừng lo giữ lấy độc quyền ơn cứu độ cho mình, nhưng hãy sống cái hạnh phúc
được thuộc về Chúa Kitô và chia sẽ cho anh em hạnh phúc ấy. Mỗi người cần phải
nghĩ đến người khác trong khi nói năng, cư xử, hành động, để trở nên gương sáng
cho người khác. Hãy thay đổi cách suy nghĩ và hành động phản chứng và gây gương
mù. “Tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba, hết thảy chúng ta được mời gọi tự vấn lương
tâm và có những sáng kiến đại kết bổ ích để có thể giới thiệu cho thế giới thấy
mình vào Năm Đại Toàn Xá 2000, nếu chưa hoàn toàn hiệp nhất thì ít ra cũng vượt
qua được nhiều chia rẽ của Thiên Niên Kỷ Thứ Hai. Muốn thế, cần phải nỗ lực rất
nhiều. Phải tiếp tục tiến hành đối thoại về giáo lý, nhưng nhất là cầu xin ơn
hiệp nhất. Lời cầu nguyện mà chính Đức Kitô tha thiết kêu gọi trước khi chịu
nạn: “Lạy Cha, xin cho mọi người hiệp nhất nên một trong chúng ta” (Ga 17,21)
(số 43).
9.
Chặt tay bạn đi – Gm. Arthur Tonne.
Ngày xửa, ngày xưa, một đoàn thám hiểm
từ lục địa Châu Âu đi tìm đất mới. Bạn biết gì về hòn đảo Ireland ngày nay –
Nhà lãnh đạo của họ là một người phiêu lưu với số mệnh. Ông tuyên bố: Ai dựng
lều đầu tiên, sẽ là chủ toàn thể lãnh thổ. Một người trong nhóm tên là O’Neil
quyết tâm dành được đất mới. Ông rán sức chèo, nhưng một chiếc thuyền đối thủ
rượt theo ông, bắt kịp ông rồi qua mặt ông. Ông có thể làm gì? Người đàn ông
tinh thần mạnh mẽ, ý chí sắt đá này buông mái chèo, cầm lấy búa và chặt bàn tay
trái liệng lên bờ. Như thế ông là người đầu tiên đụng vào đất mới, và nó là của
ông.
Tôi
kể câu chuyện đẫm máu và rùng rợn này để giúp chúng ta hiểu được những lời đẫm
máu và rùng rợn của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: “Nếu tay bạn làm cớ
cho bạn phạm tội, hãy chặt nó đi. Thà bạn tàn tật mà được vào cõi hằng sống hơn
là có đủ hai tay mà phải vào hỏa ngục. Chúa Giêsu muốn nói điều chi?
Người
nói rằng những ai theo Người phải sẵn sàng hy sinh những cái gần gũi nhất, thân
yêu nhất hơn là bất tuân luật Chúa bởi phạm tội. Cắt tay, chặt chân, hay móc
mắt không hiểu theo nghĩa đen. Chúa Giêsu không nói rằng chúng ta phải thật sự
chặt tay, chặt chân. Đó chỉ là cách nhấn mạnh của Người và gây ấn tượng mạnh mẽ
trên chúng ta, để chúng ta hiểu rằng Nước Thiên Chúa, đất vĩnh cửu của chúng ta
muốn đạt được, xứng đáng mọi hy sinh.
Để
chiếm được Nước Trời, chúng ta phải sẵn sàng làm một vài việc quyết liệt và đau
đớn như chặt chân, cắt tay. Với một số người, xa lìa một vài món đồ vật chất
cũng có thể đau đớn như cắt một bàn tay. Tuy nhiên Chúa Giêsu nói với chúng ta
rằng: Nếu chúng ta cho người đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người không nhà ở
trọ, chúng ta sẽ chiếm được Nước Trời. Chúng ta phải làm một vài hy sinh để
nâng đỡ Giáo Hội Chúa, công cuộc của Chúa là truyền bá đức tin. Cái đó thường
cũng đau đớn.
Hy
sinh để đẹp lòng Chúa và chiếm đoạt Nước Trời có thể cũng đau đớn như cắt một
bàn tay. Với một người nghiện rượu, bỏ một chai rượu hay chỉ một ly thôi cũng
có thể gây khổ sở cho anh. Nhưng để làm đẹp lòng Chúa, anh phải bỏ. Chúng ta
thích ngủ nướng trên giường vào sáng Chúa Nhật hơn là đi lễ. Cố gắng chiến đấu
để vượt thắng tính lười biếng, có thể gây phiền phức, khó chịu ở một mức độ nào
đó. Nhưng đó là phương cách để chúng ta chiếm đoạt Nước Thiên Chúa. Thường dễ
ngồi chăm chú nhìn màn kính truyền hình đến phút chót, hơn là dành chút thời
giờ cầu nguyện hay đọc vài dòng Kinh Thánh, hoặc đọc báo chí Công giáo, và ngay
cả nói chuyện với người thương.
Hầu
chuyện với Chúa là một đặc ân lớn lao, một niềm vui tuyệt diệu nhưng nó đòi hỏi
cố gắng cắt bớt một vài việc không quan trọng và gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu đã cố
gắng, Chúa Giêsu đã hy sinh. Người không chỉ cắt tay, Người hiến cả thân mình,
chúng ta tưởng niệm sự dâng hiến đó nơi đây trên bàn thờ này. Hãy xin Chúa
Giêsu sức mạnh để từ bỏ chính mình.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
10.
Suy niệm của Noel Quesson.
AI
KHÔNG CHỐNG LẠI CHÚNG TA LÀ THUẬN VỚI CHÚNG TA
Một ni cô nọ có một tượng Phật bọc
vàng, cô quý pho tượng lắm, đi đâu cũng mang theo. Trong ngôi chùa cô tu hành
có nhiều tượng Phật, cô dọn riêng cho pho tượng của mình một bàn thờ đặc biệt.
Lúc đốt hương trước tượng Phật của mình, ni cô không muốn làn hương bay sang
các tượng khác, cộ xoay trở làm sao cho làn khói hương bay thẳng vào mũi pho
tượng vàng của mình. Lâu ngày, pho tượng vàng của ni cô vì đón nhận khói hương
mỗi ngày nên mũi tượng trở nên đen thùi xấu xí.
Đôi
khi lòng nhiệt tình đến mức ích kỷ, cũng trở nên nhỏ mọn khó coi.
Trong
Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu không hài lòng về thái độ hẹp hòi
của các Tông đồ. Chúa vừa bảo các ông khiêm tốn, phải nên tôi tớ mọi người,
phải phục vụ mọi người, chứ không phải chỉ riêng với người đồng đạo, người Công
giáo.
Nhưng
các Tông đồ chưa thấm nhuần bài học này. Chúng ta thấy chính Gioan, một Tông đồ
ưu tú của Chúa Giêsu phát biểu: “Thưa Thầy, chúng con thấy có người nhân danh
Thầy mà trừ quỷ, chúng con muốn ngăn cản anh ta, vì anh ta không theo chúng
ta”. Đọc câu chuyện này có lẽ ai trong chúng ta cũng thấy cái tính hẹp hòi,
không thích hợp với tinh thần quảng đại của Chúa Giêsu.
Chúng
ta đừng quên rằng trong thực tế ngày nay, tinh thần này vẫn còn tồn tại và đôi
khi vẫn bộc lộ trong tư duy cá nhân và tập thể. Có lúc các tín hữu chúng ta
cũng khó chịu khi thấy có người ngoài nhóm chúng ta mà cũng làm được những
chuyện tốt đẹp khác thường, những người không theo Chúa Giêsu mà cũng dùng giáo
lý Người làm phương châm cuộc sống và nhờ đó đã đạt tới thành công. Đôi lúc có
vẻ những người không phải Kitô hữu mà cũng nhận ra được ơn Chúa, họ cũng biểu
lộ được những đức tính mà người Công giáo ra công gắng sức tập luyện mà chưa
đạt tới. Thấy những người ngoài Công giáo sống tốt, biết xả kỷ vị tha, có người
Công giáo đã tỏ ra không ưa, cho rằng những hành vi kia chỉ là vẻ bề ngoài hoặc
là giả tạo. Còn Chúa Giêsu, Người muốn sửa đổi những suy nghĩ sai lầm ấy, Người
cho các Tông đồ thấy rõ: Ai không chống lại Chúa, là ủng hộ Chúa, và họ cũng có
công phúc. Mọi người đều có thể đón nhận Chúa, ai cũng có thể sống theo tinh
thần Chúa. Chúa có thể ban ơn cho bất cứ ai. Người không bị ràng buộc vào một
băng nhóm hay một cơ chế nào. Giáo lý và Tin Mừng của Chúa dành cho mọi người,
giáo cũng như lương. Ở chỗ khác, Chúa cũng diễn tả vấn đề này bằng kiểu nói
khác: “Thần Khí như gió, muốn thổi đâu thì thổi” (Ga 3,8).
Thánh
Phêrô đã thấy Thánh Linh xuống trên cả dân ngoại (Cv 10,44). Chúa thông suốt
mọi sự, nên Người đã giải thích cho các môn đệ: “Không ai vừa nhân danh Thầy
làm phép lạ, lại vội nói xấu Thầy”, nghĩa là có những lúc Chúa tỏ uy quyền của
Người trên cả những người chưa phải là tín hữu Kitô. Điều đó giúp chúng ta xác
quyết rằng những hành động tốt thì luôn luôn do Chúa soi sáng thúc đẩy. Hiểu
như thế chúng ta sẽ nhận ra những người thành tâm thiện chí để hợp tác, để đón
nhận nhiều bạn đồng hành trên đường phục vụ và loan báo Tin Mừng Cứu độ cho mọi
người theo gương Chúa và chu toàn ý định của Chúa: “Muốn cho mọi người được cứu
và nhận ra Chân lý” (1Tm 2,4).
Lạy
Chúa, xin giúp con sống quảng đại với mọi người, sẵn sàng hợp tác với những
người thành tâm thiện chí để mưu ích cho mọi người. Xin Chúa tỏ quyền năng Chúa
trên chúng con và những người đang tìm về với Chúa. Chúng con xin tạ ơn Người.
11.
Dịp tội.
Qua
đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về dịp tội.
Câu
hỏi thứ nhất: Dịp tội là gì?
Tôi
xin thưa, đó là những hoàn cảnh thúc đẩy làm cho chúng ta dễ dàng vấp ngã.
Câu
hỏi thứ hai: Chúng ta phải có thái độ nào đối với dịp tội?
Trước
hết bản thân chúng ta không được trở thành dịp tội cho người khác sai lỗi. Hay
nói một cách cụ thể hơn, chúng ta không được phép làm gương mù gương xấu cho
người khác.
Rất
nhiều lần chúng ta đã nói:
-
Không ai có thể sống cô độc lẻ loi một mình, trái lại, chúng ta sống là sống
với người khác.
Thế
nhưng, trong cuộc sống chung này, chúng ta lại ảnh hưởng đến nhau rất nhiều.
Một lời nói tốt, hay một việc làm tốt sẽ để lại một ảnh hưởng tốt. Trái lại,
một lời nói xấu hay một việc làm xấu, sẽ tạo nên một hậu quả xấu nơi người
chung quanh. Chính vì thế mà tục ngữ đã bảo:
-
Gần
mực thì đen, gần đèn thì rạng.
Hay
như danh ngôn Tây phương cũng nói:
-
Anh
hãy chỉ cho tôi biết bạn anh là ai, tôi sẽ cho anh hay anh là người như thế
nào.
Chính
vì thế, chúng ta không được làm gương mù gương xấu, trở thành dịp tội, trở
thành cái cớ cho người khác vấp phạm.
Chúa
Giêsu đã có một thái độ nghiêm khắc đối với kẻ làm gương mù gương xấu. Ngài
nói:
-
Nếu
ai làm cho một trong những kẻ bé mọn này phạm tội, thì thà buộc cối đá vào cổ
nó mà quẳng xuống biển còn hơn.
Đang
khi mọi người cố gắng rao giảng Tin Mừng, góp phần làm cho Giáo hội được phát
triển, thì gương mù gương xấu sẽ hủy hoại Giáo hội và làm cho Giáo hội bị giảm
sút.
Ngoài
ra, bản thân chúng ta còn phải xa tránh những dịp tội. Như trên chúng ta đã nói
dịp tội là những hoàn cảnh thúc đẩy khiến chúng ta dễ dàng sai lỗi. Bởi đó, tục
ngữ đã dạy:
-
Lửa
gần rơm lâu ngày cũng bén, chơi dao có ngày đứt tay.
Hay
như một nhà đạo đức đã xác quyết:
-
Sống
trong dịp tội mà không sai lỗi vấp phạm, thì đó là một phép lạ cả thể mà chắc
chắn Chúa sẽ chẳng bao giờ thực hiện cho chúng ta.
Tuy
nhiên, có điều chúng ta cần phải lưu ý: dịp tội thay đổi tùy theo mức độ hiểu
biết và trưởng thành của mỗi người. Cùng một cuốn sách, người này đọc thì thấy
hay và bổ ích, còn người khác thì bị cám dỗ nặng nề về đức tin hay đức trong
sạch. Vì thế, không phải hễ thấy người khác làm việc nọ việc kia là chúng ta
bắt chước mà làm theo. Trái lại, cần phải suy nghĩ, cân nhắc, bàn hỏi và lắng
nghe tiếng nói của lương tâm để dễ dàng nhận ra dịp tội, bởi vì trước mỗi hoàn
cảnh, trước mỗi công việc, lương tâm thường lên tiếng báo động và chỉ cho chúng
ta hay đâu là cái phải làm và đâu là cái phải tránh.
Tóm
lại để bảo vệ vẻ trong trắng của tâm hồn, chúng ta hãy can đảm xa tránh dịp
tội, như lời Chúa đã phán dạy:
-
Nếu
mắt con làm con phạm tội, thì hãy móc nó đi, vì thà rằng chột một mắt mà được
vào nước trời, còn hơn là có đủ cả hai mắt mà bị quăng vào hỏa ngục đời đời.
12.
Gương mù.
Bài
Tin Mừng hôm nay có bốn lời khuyên của Chúa Giêsu được thánh Marcô ráp lại với
nhau: Thứ nhất, hãy loại bỏ thái độ thống trị, ngay cả với người
ngoài cộng đồng Giáo hội. Thứ hai, giá trị của mỗi người môn
đệ là do liên đới với Đức Kitô. Thứ ba, đừng làm cớ cho người khác
vấp ngã, dù là người nhỏ bé nhất. Thứ tư, hãy loại bỏ mọi nguyên nhân
làm cho mình vấp ngã, vì giá trị tuyệt đối của nước trời. Sau đây chúng ta chỉ
tìm hiểu hai điều sau thôi, tức là gương mù gương xấu.
Chúng
ta biết: điều răn của Chúa đặt cơ sở trong cõi lòng, trong tư tưởng, trong
lương tâm, một khi con người có tư tưởng thế nào thì hành động ắt sẽ xảy ra như
vậy. Nhưng có một điều trớ trêu là từ tư tưởng tốt đến hành động tốt có vẻ hơi
xa, ngược lại, từ tư tưởng xấu đến hành động xấu thì rất gần. Những hành động
xấu lại là dịp tội, là gương mù gương xấu kéo theo bao nhiêu thứ tội khác và
kéo theo bao nhiêu người khác nữa sa ngã: “Mù dắt mù cả hai ngã xuống hố”. Một
ngọn đèn hết sáng thì bóng tối ùa vào, bao nhiêu ngọn đèn khác cần được thắp
sáng nhờ ngọn lửa của ngọn đèn đó thì nay không còn. Một ngọn đèn tắt đi là
không những tối cho mình mà nhiều người khác dễ vấp ngã.
Gương
mù gương xấu là lời nói hay việc làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người
ta. Gương mù
gương xấu ví như hòn đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho
người ta phạm tội. Tai hại như vậy nên Chúa Giêsu gắt gao lên án hết mọi kẻ làm
gương mù gương xấu. Chúa lên án gắt gao vì họ là kẻ giết người vô tội, tiêu hủy
đức tin. Làm tăng thêm số người tội lỗi và khô khan, nói chung là làm hại các
linh hồn. Kinh Thánh cho biết bà Dê-da-ben ăn ở lẳng lơ làm gương mù gương xấu
cho dân, số người bắt chước đời sống xấu xa của bà trong mấy năm thôi đã trở
nên gấp mười lần số người các ngôn sứ đã khuyên được sau bao nhiêu năm khó nhọc
vất vả. Tai hại và nguy hiểm như vậy nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc thớt đá
cối xay vào cổ và quăng xuống biển, vì họ phải chịu trách nhiệm về những tội họ
làm cho người ta phạm và những tội chính họ phạm nữa. Chúng ta cũng nên biết
thêm một chút về câu nói trên đây của Chúa Giêsu. Ở Do Thái có hai loại thớt cối đá: một loại thớt cối xay bột do các bà
làm bánh quay tay, một loại rất nặng do đôi bò kéo để chà ngũ cốc. Ở Palestine
có hai hình phạt nặng nhất cho tử tội là thập giá và buộc thớt cối đá ném xuống
biển. Loại hình phạt thứ hai do người Rôma mang vào Do Thái, và rất kính sợ vì
chết chìm nghỉm, mất xác, làm mồi cho hà bá. Chúa Giêsu dùng hình ảnh này
để nói lên một chân lý đáng sợ của Ngài là nếu gây gương mù dịp tội thì đáng
lãnh án phạt nặng nề kinh khiếp không phải là ở trần gian mà là trong hỏa ngục
của đời sau. Thật vậy, một người phạm tội một mình đã là tội rồi, lại còn lôi
cuốn người khác phạm tội nữa, thì tội đó còn nặng hơn là tội giết người, vì
giết người là cất một sự sống trăm năm, còn gương mù làm mất sự sống vĩnh cửu.
Và chúng ta nên nhớ: tội gương mù không phải là hễ nhiều người thấy mới là gương
mù, mà chỉ một người thấy thôi cũng đủ là gương mù rồi.
Vì
thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta phải hết sức tránh dịp tội, Chúa bảo phải “móc
mắt, chặt tay, chặt chân”, không phải là móc mắt, chặt tay, chặt chân thật mà
Chúa chỉ muốn so sánh việc mất mắt, mất tay, mất chân với việc cả toàn thân bị
ném vào hỏa ngục. Chúa bảo chúng ta phải lựa chọn một trong hai điều: hoặc là
phải hy sinh một vài điều có thể gọi là quý báu tạm thời trên đời đổi lấy sự
sống vĩnh cửu, hoặc là cứ khư khư giữ lấy cái quý giá tạm bợ kia để rồi lãnh án
phạt đời đời. Vậy móc mắt, chặt tay, chặt chân là Chúa muốn chúng ta đặt ra một
kỷ luật nghiêm minh cho chính mình. Chẳng hạn nếu hình ảnh nào làm cho chúng ta
phạm tội, chúng ta phải can đảm ngoảnh mặt đi, cũng như không thể để gói thuốc
nổ gần lửa rồi mong rằng không có tai nạn xảy ra. Cũng tương tự như thế cho
những ai trong dịp tội, đừng có liều mình. Các thánh nhân đã kinh nghiệm dạy:
“thà phòng bệnh hơn chữa bệnh”, “đào vi thượng sách”. Trong kinh Lạy Cha, chúng
ta đọc “xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ”, mà một đàng mình cứ quanh quẩn ở
trong dịp tội, cứ đứng ở chỗ trơn trượt thì sao đây? Cuộc đời có thể có những
cái nếu chúng ta không làm thì bị anh em cười chê, nhưng nhớ rằng: bị Chúa cười
chê đời đời mới đáng sợ và phải sợ, chứ còn trần gian cười ba tháng là tối đa.
Chúa muốn chúng ta nghĩ tới hình khổ hỏa ngục trầm luân mà giữ mình cẩn thận.
Vậy
chúng ta phải tránh xa dịp tội, gương mù gương xấu để chính mình khỏi vấp ngã,
và chúng ta cũng đừng bao giờ làm dịp tội hay gương mù gương xấu cho người
khác. Cả hai đều đáng khinh đáng ghét ở đời này và lãnh án phạt nặng nề đời
sau.
13.
Suy niệm của JKN.
CÁM
DỖ CỦA ÓC BÈ PHÁI VÀ ĐỘC QUYỀN TRONG TÔN GIÁO
Câu hỏi gợi ý:
1.
Khi
thấy có người ngoài nhóm mình nhân danh Thầy mình để trừ quỉ, các tông đồ khó
chịu và muốn ngăn cản. Thái độ ấy có đúng không? Nó nói lên não trạng gì? Não
trạng ấy có hiện hữu trong các Kitô hữu hiện nay không?
2.
Các
giáo phái Kitô giáo hiện nay có đoàn kết, yêu thương nhau không? Đức Giêsu sẽ
vui hay buồn khi thấy các giáo phái tuy đều nhận mình là Chúa là Thầy nhưng lại
nhân danh đức tin để nói xấu, kết án và loại trừ nhau?
3.
Đức
tin có thể gây chia rẽ, nhưng đức ái chỉ tạo nên đoàn kết. Giữa hai nhân đức
quan trọng ấy, đức nào mới thật sự là điều kiện để vào Nước Trời?
CHIA SẺ
1.
Khuynh hướng bè phái và muốn độc quyền của các tông đồ
Một
trong những khuynh hướng rất thông thường nơi con người, đó là óc bè phái và
ham muốn độc quyền. Khuynh hướng này được biểu lộ nơi các môn đệ Đức Giêsu
trong bài Tin Mừng hôm nay. Trên con đường loan báo Tin Mừng, các môn đệ Ngài
thấy có những người không thuộc nhóm của mình lại nhân danh Ngài mà làm được
những phép lạ như trừ quỉ, chữa bệnh… Theo quan niệm của các ông, chỉ những ai
ở trong nhóm 12 như mình mới có quyền nhân danh Thầy mình để làm phép lạ, trừ
quỉ, chữa bệnh… Nếu có ai khác làm điều ấy được, lập tức các ông nhận thấy độc
quyền của mình bị xâm phạm. Có lẽ các ông cảm thấy bực bội vì điều ấy nên đã cố
ra tay ngăn cản họ. Đức Giêsu đã tỏ ra không tán thành khuynh hướng bè phái
muốn độc quyền ấy của các ông.
2.
Cám dỗ mang tính bè phái và độc quyền nơi người Kitô hữu
Trong
đời sống Kitô hữu, nhiều khi chính chúng ta cũng bị cám dỗ bởi não trạng bè
phái và ham muốn độc quyền như các môn đệ Đức Giêsu. Chẳng hạn những người cùng
tin vào Đức Giêsu và cùng nhận Ngài là Cứu Chúa, theo thời gian, bị phân thành
nhiều giáo phái khác nhau. Việc bị phân hóa như thế là một việc hết sức tự
nhiên nếu không muốn nói là tất yếu, vì tất cả mọi tôn giáo, mọi trường phái tư
tưởng, nghệ thuật, v. v… đều bị phân hóa theo thời gian theo định luật đa dạng
hóa của tự nhiên. Theo tôi, nếu không bị phân hóa như thế thì đó mới chính là
điều lạ thường. Đương nhiên, giáo phái nào cũng tự cho mình là đúng đắn nhất,
là gần với chân lý nhất. Tiếp xúc với các tín đồ của nhiều giáo phái khác nhau,
tôi không hề thấy một giáo phái nào lại cho rằng có một giáo phái khác đúng hơn
mình. Điều này cũng chẳng làm tôi ngạc nhiên hay bất mãn chút nào!
Dù
khác nhau - chủ yếu là trong tiểu tiết - các giáo phái vẫn hết sức giống nhau
trong đại thể. Giáo phái nào cũng đều tin và tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên
Chúa, là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Giáo phái nào cũng chủ trương phải
sẵn sàng dấn thân theo Ngài với tất cả tình yêu, lòng nhiệt thành của mình. Giáo
phái nào cũng đều tuyên xưng: «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và
lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ
được cứu độ» (Rm 10,9). Giáo phái nào cũng chủ trương: «Tất cả những ai kêu cầu
danh Đức Chúa thì sẽ được cứu thoát» (Rm 10,13).
3.
Thật là một gương xấu vĩ đại
Nhưng
thật là một điều trớ trêu và là một gương xấu vĩ đại trước những người ngoài
Kitô giáo, khi mà:
-
một
đằng Đức Giêsu - Đấng mà mọi giáo phái Kitô giáo đều tôn thờ, đều nhận là Chúa,
là Thày - đã tuyên bố: «Người ta cứ dấu này mà nhận biết anh em là môn đệ Thầy,
là anh em yêu thương nhau» (Ga 13,35).
-
đằng
khác, các giáo phái Kitô giáo lại coi nhau như là ngoại đạo! Các giáo phái nói
xấu lẫn nhau, mạt sát lẫn nhau, kết án lẫn nhau, một vài trường hợp khủng bố
lẫn nhau! Nhiều giáo phái Kitô giáo phủ nhận khả năng được cứu rỗi của những
người thuộc giáo phái khác, cho dù tất cả đều tin và tuyên xưng những điều căn
bản y hệt như nhau! Dường như giáo phái nào cũng muốn hạn chế hoặc chỉ dành
riêng sự cứu rỗi cho những ai theo giáo phái của mình! Đó là điều tôi lấy làm
lạ, làm ngạc nhiên hết sức, và không thể chấp nhận được!
Đây
quả là một gương xấu vĩ đại, một điều mỉa mai cho Đức Giêsu và cho tất cả các
giáo phái Kitô giáo, vì gương xấu này là một phản chứng nặng nề đối với những
người ngoài Kitô giáo, khiến họ không thể chấp nhận được một tôn giáo như thế!
Ước gì các giáo phái Kitô giáo đều đọc và suy nghĩ câu Đức Giêsu nói trong bài
Tin Mừng hôm nay: «Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa
ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn».
4.
Coi chừng chính kẻ kết án lại là kẻ độc ác, thiếu tình thương
Khi
nghe một người Kitô hữu thuộc một giáo phái nào đó quả quyết chắc chắn rằng
những Kitô hữu trong những giáo phái khác với họ đều không được cứu rỗi, thì
tôi hỏi người ấy: «Vậy anh có muốn điều anh quả quyết như thế là đúng không?»
Nếu anh ta trả lời rằng muốn, thì tôi nói: «Vậy thì anh quả là độc ác! Một đằng
Thiên Chúa muốn tất cả mọi người đều được cứu rỗi (x.1Tm 2,4), Còn anh lại muốn
chỉ những ai trong giáo phái của anh mới được cứu rỗi. Anh sẵn sàng chấp nhận
những người khác giáo phái của anh không được cứu rỗi, tức sa hỏa ngục. Vậy thì
anh mới chính là người đáng sa hỏa ngục đầu tiên, vì nơi anh không có tình
thương! Vì tình thương mới là điều quan trọng nhất phải có để vào thiên đàng,
để hợp nhất với Đấng mà bản chất là tình thương».
Nếu
anh ta mong rằng điều anh ta nghĩ là sai, thì tôi bảo: «Như vậy là anh rất nhân
từ, có tình thương! Tốt lắm! Phần tôi, tôi chắc chắn rằng Thiên Chúa còn nhân
từ và nhiều tình thương hơn anh gấp tỷ lần. Ngài có đủ quyền năng và đủ cách để
giải quyết cho những Kitô hữu khác giáo phái với anh được cứu rỗi. Vì thế, anh
hãy phó mặc số phận của những người theo giáo phái khác trong tay Chúa và hãy
an tâm! Anh hãy lo cho chính bản thân anh thì tốt hơn, vì nếu anh không có tình
yêu, anh không thể vào thiên đàng được đâu! Điều Chúa muốn nơi anh chính là anh
hãy coi các Kitô hữu khác giáo phái với anh là đồng đạo, và coi cả những người
khác tôn giáo với anh nữa là anh em. Anh hãy yêu thương họ và hãy mong ước
những điều tốt lành nhất cho họ!»
5.
Điều quan trọng nhất để vào được thiên đàng là tình yêu
Điều
quan trọng để vào được thiên đàng là đức tin. Nhưng điều còn quan trọng hơn nữa
là tình yêu. Thánh Phaolô viết: «Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều
tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến» (1Cr 13,13). Khi lên thiên đàng,
đức tin, đức cậy không còn vì không cần thiết nữa, chỉ riêng «đức mến không bao
giờ mất được» (1Cr 13,8). Thiên đàng được định nghĩa là nơi hạnh phúc, trong đó
mọi người hoàn toàn đối xử với nhau bằng tình thương. Nếu có ai còn ích kỷ hay
thiếu tình thương mà lọt vào đó ắt người đó sẽ làm ô nhiễm ngay bầu khí hạnh
phúc của thiên đàng. Chính vì thế, theo tinh thần đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46,
khi phán xét, Thiên Chúa chỉ phán xét về cách cư xử của ta có tình thương hay
không mà thôi. Cứ nhìn vào đời sống thực tế thì biết, chúng ta dễ hạnh phúc ở
bên những người biết yêu thương hơn là bên những người có niềm tin. Thực ra,
niềm tin đích thực tất yếu phải dẫn tới tình yêu. Thế giới này đã từng điêu
đứng khổ sở vì những cuộc chiến tranh tôn giáo, thậm chí ngày nay vẫn còn. Những
cuộc chiến tranh ấy nổ ra không phải do con người thiếu đức tin cho bằng thiếu
tình thương. Có thể nói: đức tin cộng với lòng ích kỷ (tức thiếu tình thương)
sẽ thành óc bè phái. Óc bè phái chính là nguyên nhân của chiến tranh. Vì thế,
đức tin phải đi đôi với đức mến hay dẫn tới đức mến mới là đức tin đích thật.
Niềm tin không dẫn tới tình yêu, thật ra, chỉ là niềm tin giả tạo, tương tự như
«đức tin không có việc làm là đức tin chết» (Gc 2,17.26). Như vậy, một Kitô hữu
có đầu óc bè phái, muốn độc quyền được cứu rỗi, nghĩa là muốn loại trừ những
Kitô hữu khác giáo phái mình, không muốn họ hưởng hạnh phúc đời đời, thì Kitô
hữu ấy rõ ràng là thiếu tình thương. Mà thiếu tình thương thì làm sao vào thiên
đàng được?
Cầu nguyện
Lạy
Cha, xin cho con một đức tin đích thực nơi Cha và nơi Đức Giêsu. Đức tin đích
thực tự bản chất phải bao hàm tình yêu ở bên trong. Không bao hàm tình yêu, đức
tin đó chỉ là đức tin giả tạo, là nguồn phát sinh óc bè phái, óc độc quyền,
cũng là nguồn phát sinh nên bao cuộc chiến tranh tôn giáo trên thế giới. Xin
ban cho con tình yêu đối với mọi người chung quanh con, đặc biệt đối với tất cả
những ai tin theo Đức Giêsu, như dấu chỉ đặc trưng cho người môn đệ đích thực
của Ngài.
14.
Ghen tức.
Qua
phần Phụng vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta ghi nhận hai nhân vật, đó là Giôsuê và
Gioan. Cả hai nhân vật này đều có chung một thái độ, đáng cho chúng ta suy
nghĩ, đó là lòng ghen tức.
Nhân
vật thứ nhất là Giôsuê.
Ông đã được Maisen tuyển chọn, đặt đứng đầu quân đội, để dẫn đưa dân Do Thái
băng qua sa mạc cát nóng, cũng như vượt qua sông Giócđan, tiến vào miền đất
hứa, chiếm lại phần lãnh thổ của cha ông ngày trước. Thế nhưng, Giôsuê đã ghen
tức vì hai ông Eđát và Mêđát được ơn nói tiên tri. Bởi đó, Giôsuê đã xin Maisen
ngăn cản, nhưng Maisen đã không làm theo lời Giôsuê nài xin.yêu cầu.
Nhân
vật thứ hai là Gioan.
Ông là vị tông đồ trẻ tuổi và được Chúa Giêsu yêu mến. Thế nhưng, khi nhìn thấy
những người khác nhân danh Chúa Giêsu, Thày mình, mà trừ quỉ, có lẽ Gioan cũng
đã có một chút ghen tức và đã ngăn cấm họ, hầu bản thân mình và phe nhóm của
mình được độc quyền. Và như chúng ta đã thấy: Chúa Giêsu đã không chấp nhân
quan niệm ấy
Từ
thái độ của Giôsuê và của Gioan, chúng ta chúng ta có thể rút ra một định
nghĩa: ghen tức là thái độ buồn sầu khi người khác được may mắn và vui mừng
khi họ gặp phải rủi ro hay tai ương hoạn nạn. Nếu xét mình, chúng ta sẽ
thấy đó chính là phản ứng thường tình của mỗi người chúng ta. Một người bạn
thành công, chúng ta cảm thấy bực bội, rồi từ đó chúng ta đi nói hành nói xấu người
bạn ấy. Thôi thì đủ mọi chuyện, thượng vàng hạ cám. Chúng ta ghen tức, nhưng
chúng ta đâu có ngờ tới những hậu quả tai hại của nó.
Thực
vậy, người có tính ghen tức không bao giờ được hạnh phúc cả. Tôm
hồn luôn buồn bực vì thua kém bè bạn vì những sự không đâu. Người bạn có bộ
quần áo mới cũng làm cho chúng ta buồn. Người bạn được thiên hạ khen cũng làm
cho chúng ta bực. Và nhiều khi thái độ ghen tức của chúng ta sẽ trở thành đề
tài cho người khác chê cười. Chẳng hạn có hai ông mù đi ăn xin. Ông này nghe
người ta bảo ông kia hát hay thì bực bội lắm. Vào một buổi sáng, ông này nghe
thấy tiếng hát của ông kia, liền mon men lại gần rồi cũng gân cổ lên để mà hát.
Ông nào cũng hát thật to để cho người đi đường biết rằng mình hát hay. Thế
nhưng, ai đi qua cũng đều lắc đầu ngao ngán và nói: rõ thật đồ điên.
Thái
độ ghen tức còn có thể dẫn đến những tội lỗi nặng nề khác nữa,
chẳng hạn như nói hành nói xấu, bỏ vạ cáo gian, thậm chí đến cả tội giết người.
Vì thế, ghen tức đã được liệt vào trong bảy mối tội đầu, là như những căn
nguyên sinh ra mọi tội lỗi khác.
Như
chúng ta đã biết: Giuse được Giacóp yêu thương khiến cho các người anh ghen
tức, nhất là khi Giuse kể lại những giấc mơ của mình. Nào là những bó lúa của
các anh vây quanh và sụp lạy bó lúa của Giuse. Nào là mặt trời, mặt trăng và
mười một ngôi sao sụp lạy Giuse…Từ thài độ ghen tức ấy, những người đã anh tìm
cách giết hại Giuse như bỏ Giuse xuống giếng cạn và sau cùng đã bán Giuse cho
phường lái buôn Ismaen đang trên đường đi xuống Ai cập. Rồi lấy áo choàng của
Giuse nhúng vào máu chiên mà đem về báo cho Giacóp biết là Giuse đã bị thú dữ
ăn thịt.
Những
người biệt phái cũng đã ghen tức với Chúa Giêsu, nên họ đã cáo gian Chúa trước
tòa án Philatô và đã đóng danh Ngài vào thập giál
Để
dứt bỏ thái độ ghen tức, chúng ta hãy hòa mình vào nếp sống của người khác: vui
niềm vui của họ, buồn nỗi buồn của họ. Hãy bắt chước thánh Gioan Tiền Ho, đã
không ghen tức khi thấy ảnh hưởng của mình bị giảm sút, trong khi uy tín của
Chúa Giêsu mỗi ngày một gia tăng. Trái lại, ông đã nói:
-
Tôi
phải nhỏ đi, còn Ngài phải lớn lên. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày
cho Ngài.
Hãy
để cho Chúa được lớn lên trong chúng ta. Hãy trở nên như đày tớ phục vụ người
khác. Hãy thực thi lời thánh Phaolô trong cuộc sống thường ngày, đó là hãy vui
cùng người vui và hãy buồn với người buồn.
15.
Dịp tội.
Bài
Tin Mừng có hai phần và trong mỗi phần Chúa Giêsu khuyên dạy chúng ta một điều
quí giá: Thứ nhất, đừng làm cớ cho người khác vấp phạm. Thứ hai, phải
loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho chính mình phạm tội.
Trước
khi đưa ra những lời khuyên này, Chúa Giêsu cho biết: Chúa sẽ ghi công và khen
thưởng cho những ai giúp đỡ bất cứ cái gì cho môn đệ của Ngài, dù chỉ là một
bát nước lã thôi, Ngài cũng không bao giờ quên lòng tốt của họ. Nhưng ngược
lại, Ngài cũng không thể làm ngơ khi người nào làm cho một người khác, dù là
trẻ nhỏ hay người hèn kém nhất vấp phạm, nghĩa là làm gương mù gương xấu lôi
kéo người khác phạm tội, xa Ngài, thì Ngài không bao giờ bỏ qua đâu.
Rồi
để cho mọi người ý thức về sự nghiêm trọng của việc ấy, Ngài bảo rằng: “Khốn
cho kẻ làm gương mù gương xấu”. Gương mù gương xấu là gì? Là lời nói hay việc
làm gây nên sự thiệt hại cho linh hồn người ta. Gương mù gương xấu ví như hòn
đá đặt giữa lối đi làm cho người ta vấp ngã, nên dịp cho người ta phạm tội. Rất
là tai hại: không những mình đã phạm tội mà còn làm cho kẻ khác phạm tội nữa.
Trên một chuyến xe lửa, cha Béc-Na
Vô-gan gặp một hành khách ăn nói rất tự do và thô tục. Ông ta nói những chuyện
đồi bại, lấy làm thích thú và cười khoái trá. Mọi thái độ khôn ngoan và lịch sự
nhắc ông ta để ông ta im lặng đều không hiệu quả. Xe đến ga, người hành khách
ấy xuống. Cha Vô-gan thò đầu ra cửa xe gọi theo: “Này ông, ông còn quên cái gì
đây này”. Người đó vội leo lên toa, nhìn quanh và hỏi: “Quên cái gì đâu?”. Cha
Vô-gan nói với giọng tử tế nhưng cứng rắn: “Ông để lại một ấn tượng xấu cho
hành khách trong toa”. Người ấy xấu hổ đi xuống ngay.
Đó,
ông ta đã xấu lại còn gieo rắc điều xấu cho người khác. Tai hại và nguy hiểm
như vậy, nên Chúa Giêsu nói: họ đáng buộc cối đá vào cổ và quăng xuống biển,
nghĩa là tội của người ấy nặng lắm và rất đáng trừng phạt. Họ phải chịu trách
nhiệm về những tội họ làm cho người khác phạm và những tội chính họ phạm nữa.
Sau
khi khuyên dạy không được làm cớ cho người khác vấp phạm, tức là không được làm
gương mù gương xấu, Chúa Giêsu lại khuyên phải loại bỏ mọi nguyên nhân làm cho
chính mình phạm tội, vì sẽ mất sự sống đời đời, mất nước Thiên Chúa. Chúa đưa
ra một thí dụ để giải thích: mỗi chi thể của con người đều quí giá. Chẳng hạn:
tay, chân, mắt. Nhưng nếu phải mất một tay, một chân, một mắt để được sống, thì
vẫn phải đáng đánh đổi, nghĩa là khi một phần nào của thân thể bị đau bệnh,
không hy vọng chữa khỏi, như bị ung thư chẳng hạn, gây nguy hiểm cho thân thể
và đe dọa đến sinh mạng, thì người ta phải giải phẫu, mổ, cắt hoặc cưa phần
thân thể đó đi. Làm như thế sẽ bảo toàn được sự sống hay bảo toàn được những
phần thân thể khác, đó là chuyện thông thường trong y khoa.
Nếu
vậy, khi sự sống cần phải lựa chọn lại chính là sự sống đời đời, thì càng đáng
đánh đổi hơn nữa, nghĩa là nếu tay, chân, mắt nên cớ cho mình phạm tội, đe dọa
mất sự sống đời đời, thì hãy đánh đổi nó. Nói rõ hơn, khi Chúa nói chặt tay,
chặt chân, móc mắt, không có nghĩa là chặt tay, chặt chân hay móc mắt thật,
nhưng có nghĩa là phải dứt khoát với dịp tội. Mắt có thể hiểu là cha mẹ, người
trên. Tay có thể hiểu là anh chị em, bạn hữu, những kẻ ngang hàng. Nếu cha mẹ
hay người trên gây dịp tội cho chúng ta, dẫn chúng ta vào đàng tội lỗi, thì
bằng mọi giá, chúng ta phải dứt khoát với những người đó, dù có bị mất lòng.
Thà được lòng Thiên Chúa còn hơn được lòng người thế gian. Cũng vậy, nếu chúng
ta biết rằng: giao du với những người bạn đó, lần nào đi chơi với người ấy,
chúng ta cũng mắc thêm tội… thì dứt bỏ với dịp tội là chúng ta phải cắt đứt đi
mối tình bạn đó, dù có phải xót xa cách mấy. Thà chịu đau khổ trong năm tháng
còn hơn phải chịu cực hình ở chốn đời đời.
Bài
Tin Mừng này thật là một bài học rất hữu ích. Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người
đều có một phần trách nhiệm trong việc kiến tạo môi trường thần linh ở khu vực
mình sống. Bởi đó chúng ta phải tránh tội lỗi và việc xấu gây gương mù gương
xấu cho tha nhân. Ngay cả những việc không xấu mà nên cớ cho anh em vấp phạm,
chúng ta cũng phải tránh. Cũng thế, tất cả những gì chúng ta có: tiền tài, của
cải, chức vị, bạn hữu, thân quyến, nghề nghiệp… đều chỉ là những phương tiện để
xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu. Nhưng nếu những thứ đó là căn cớ cho tội lỗi, gây
nguy cơ đánh mất nước trời, thì vì Chúa Kitô và vì nước trời, chúng ta hãy sẵn
sàng từ bỏ, dù phải hy sinh đắt giá, vì được lời lãi cả thế gian mà mất linh
hồn thì ích gì? Xin Chúa cho tất cả chúng ta ghi nhớ và thực hành bài học hôm
nay.
16.
Óc ganh tỵ.
Khi
ấy có một số người không thuộc nhóm 12 tông đồ. Họ thấy Đức Giêsu làm nhiều
phép lạ, rồi họ thấy các tông đồ tuy không phải là Chúa nhưng nhờ danh Chúa mà
cũng làm phép lạ được. Thế là họ cũng nhân danh Đức Giêsu và họ cũng làm được
một số phép lạ. Thấy vậy, tông đồ Gioan bực tức, đã ngăn cấm họ và báo cáo lại
cho Đức Giêsu biết. Gioan tưởng cấm vậy là đúng, bởi vì những người đó không
phải tông đồ Chúa cho nên họ không có quyền nhân danh Chúa mà làm phép lạ.
Nhưng Đức Giêsu bảo đừng ngăn cấm họ. Và Đức Giêsu còn nói một câu rất hay mà
chút nữa chúng ta sẽ suy gẫm, Chúa nói “Ai không chống lại Ta thì thuộc về Ta”.
Qua
câu chuyện trên, điều chúng ta nên lưu ý là: cái óc ganh tỵ đã có sẵn trong con
người từ thuở rất xa xưa, nó vẫn còn tiếp tục ở trong con người ngay trong thời
Tân ước. Nó ở ngay trong những con người vốn là những người thân cận của Chúa,
như ông Giôsuê sau này sẽ lãnh đạo dân Chúa tiến vào Đất Hứa, như chính thánh
Gioan một tông đồ được Đức Giêsu yêu thương nhất. Đó là óc ganh tỵ bè phái vì
danh Chúa. Nói “Óc ganh tỵ bè phái vì danh Chúa “bởi vì ganh tỵ có tới ba cấp
bực:
·
Cấp
thứ nhất là ganh tỵ: đó là thói xấu khiến cho người ta khó chịu bực bội khi
thấy người khác cũng làm được một việc hay việc tốt như mình hoặc còn hay hơn,
tốt hơn mình nữa.
·
Cấp
thứ hai là ganh tỵ bè phái: là ganh tỵ với người không thuộc phe nhóm của mình.
·
Cấp
thứ ba là ganh tỵ bè phái vì danh Chúa: nghĩa là những người tín hữu Chúa,
những người có đạo ganh tỵ với những người không có đạo khi những người không
có đạo này làm được những điều hay điều tốt.
Phải
nhìn nhận rằng người có đạo thường mang đầu óc tự tôn. Họ lý luận rằng bởi vì
Chúa của mình là toàn năng, toàn thiện cho nên đạo của mình phải là đạo tốt
nhất, hay nhất. Do đó chỉ có đạo của mình mới có thể làm được những việc hay
việc tốt. Khi thấy những người không có đạo dự tính làm điều này điều nọ thì
nghĩ thầm rằng chúng nó sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu. Thế nhưng người ta
đã làm việc thành công, thì khi đó những người có đạo tức bực, tìm cách nói
xấu, xuyên tạc để hạ giá thành quả của những người kia vì họ không thuộc đạo
của mình. Trong quá khứ, chúng ta đã thấy có những vụ thiên tai bão lụt. Các tổ
chức bác ái công giáo đã hết lòng quyên góp cứu trợ. Những người công giáo rất
hãnh diện với những cuộc cứu trợ do Giáo Hội Công giáo đứng ra tổ chức. Cũng có
những nhóm khác cũng làm việc từ thiện cứu trợ như vậy, nhưng một số người Công
giáo tỏ ra nghi ngờ và khinh chê việc làm của những nhóm kia cho rằng họ sẽ
chẳng làm tới đâu, có làm được thì cũng mất mát, tham ô tùm lum, phẩm vật cứu trợ
không hoàn toàn tới tay các nạn nhân. Đó là một thí dụ về cái óc ganh tỵ bè
phái vì danh Chúa.
Nhưng
Chúa không chấp nhận như thế đâu. Đức Giêsu đã đưa ra một nguyên tắc “Ai không
chống lại Ta thì phải kể như là thuộc về Ta”. Nguyên tắc này độc đáo vì nó đi
ngược lại với nguyên tắc người ta vẫn thường theo từ trước tới giờ. Người ta
thường nghĩ “Ai không theo ta tức là kẻ chống ta”, hoặc “Ai không phải là bạn
ta thì là kẻ thù của ta”, hay hơn nữa “Ai làm bạn với kẻ thù ta thì cũng là kẻ
thù của ta”. Những nguyên tắc vừa kể biểu lộ một tâm lý tự tôn và độc tôn: chỉ
có phe nhóm của mình là hay, loại trừ tất cả những ai không thuộc về phe nhóm
mình. Còn nguyên tắc của Đức Giêsu là một nguyên tắc cởi mở, rộng lượng, nới
rộng vòng tay hợp tác: tất cả mọi người, miễn là họ không chống lại ta, cho dù
người đó không thuộc đạo ta, cũng phải coi là bạn của ta; cũng phải hợp tác với
họ.
Giữa
xã hội ngày nay, con số những người có đạo chỉ là một con số nhỏ. Nếu những
người có đạo cứ khư khư với đầu óc tự tôn và độc tôn thì họ sẽ trở thành lẻ
loi, sẽ bị cô lập giữa xã hội. Còn nếu những người có đạo biết thực hành nguyên
tắc của Đức Giêsu đề ra thì họ sẽ sống chan hòa với những người khác, sẽ có rất
nhiều cơ hội để cùng với những người khác thực hiện biết bao nhiêu điều tốt mà
Chúa muốn họ làm.
Vả
lại, Chúa đâu phải chỉ muốn cho những người có đạo làm việc tốt, mà Chúa muốn
cho mọi người đều làm việc tốt. Chúa cũng đâu có cần những người có đạo chúng
ta khi làm được một việc tốt thì phải dán nhãn hiệu đạo lên việc tốt đó, phải
ký tên mình lên việc tốt đó. Điều mà Chúa muốn là có những việc tốt đã được
làm.
Chúng
ta hãy cố gắng sống theo tinh thần Tin Mừng Chúa: đừng ganh tỵ, đừng giữ đầu óc
bè phái… nhưng cố gắng sống chan hòa với mọi người, cùng với mọi người thực hiện
những điều tốt, những việc làm có ích cho tha nhân, cho xã hội.
17.
Suy niệm của Chiara Lubich.
"NẾU CHÂN ANH LÀM CỚ CHO ANH SA
NGÃ, THÌ CHẶT NÓ ĐI; THÀ CỤT MỘTCHÂN MÀ ĐƯỢC VÀO CÕI SỐNG CÒN HƠN LÀ CÓ ĐỦ HAI
CHÂN MÀ BỊ NÉM VÀO HỎA NGỤC"
Đây
là những lời làm ta sững cả người. Đức Giêsu bảo ta hãy chặt chân, chặt tay và
móc mắt nếu chân ta, tay ta, mắt ta khiến ta phạm tội. Hẳn rằng những lời này
có đầy đủ sức mạnh của một thanh gươm hai lưỡi (xem Dt 4,12), nhưng ta biết
rằng không được hiểu theo nghĩa đen. Ý nghĩa muốn nói ở đây là trước bất kỳ dịp
tội nào, ta phải sẵn sàng khước từ tất cả, kể cả những gì và những người mà ta
rất yêu dấu, còn hơn để mất đi điều thực sự quý giá: "được vào cõi
sống", nghĩa là được hiệp thông với Thiên Chúa và được cứu độ.
Cụm
từ "cớ sa ngã" trong Phúc Âm chỉ tất cả những gì ngăn trở giữa ta và
Thiên Chúa, ngăn cản ta thi hành ý của Người; bất kỳ điều gì thọc gậy bánh xe
chặn ta đi theo Đức Giêsu, như một cái bẫy làm ta sa ngã, phạm tội. Có những
lúc con mắt, bàn tay, bàn chân "làm ta sa ngã", nghĩa là chúng dường
như dẫn ta đến chỗ chối bỏ Đức Giêsu, phản bội Người, yêu chuộng những cái khác
hơn Người.
Santa Scorese, một thiếu nữ hai mươi
ba tuổi, người thành phố Bari, miền nam nước Ý, đã hiểu rõ điều đó. Năm 1991,
khi bị một thanh niên trạc bằng tuổi mình đe dọa, cô thà chết còn hơn mất sự
trinh khiết. Đối với cô, Thiên Chúa đáng quý hơn chính mạng sống của mình.
"Nếu
chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào
cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục". Lời Sống này
lột mặt nạ "con người cũ" (xem Ep 4,22) trong ta. Thực vậy tội lỗi
không đến từ sự vật, từ bên ngoài mà xuất phát từ thâm tâm, từ trong lòng ta.
"Con người cũ" sống trong ta khi ta chiều theo những lôi cuốn của tội
lỗi và khi ta tìm cách thỏa mãn những xu hướng thấp hèn nhất của ta: thói ích
kỷ, thèm khát quyền lực, vinh quang, tiền bạc…. "Con người cũ" phải
nhường chỗ cho "con người mới" (xem Ep 4,24): Đức Giêsu ở trong ta.
Tự
sức ta, liệu ta có thể nhổ tận gốc các đam mê thác loạn ra khỏi tâm hồn và làm
trổ sinh trong ta sự sống thần linh không? Chỉ có Đức Giêsu, bằng cái chết của
Người, mới có thể làm chết đi "con người cũ" của ta, và với sự phục
sinh, Người biến đổi ta trở nên những con người mới. Người có thể ban cho ta
lòng can đảm và quyết tâm trong cuộc chiến chống lại sự dữ, và một lòng mến sắt
son, nồng nàn những gì là thiện hảo. Từ nơi Người xuất phát tự do nội tâm, bình
an và niềm vui khôn tả, nâng ta lên khỏi tất cả những xấu xa của thế gian và
cho ta được nếm trước niềm vui thiên đàng.
"Nếu
chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào
cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hỏa ngục".
"Con
người mới" trong ta phải lớn lên và phải được gìn giữ khỏi các cám dỗ của
"con người cũ". Về phần ta, ta phải làm gì? Năm 1949, tôi đã viết như
sau: "Có rất nhiều cách để dọn dẹp một căn phòng - lượm lên từng cọng rác
một; dùng chổi nhỏ, chổi chà, hoặc máy hút bụi. Hoặc ta có thể dọn sang một
phòng khác, mọi thứ đều sạch sẽ, ngăn nắp. Hành trình nên thánh của ta cũng
giống như thế. Thay vì khó nhọc bứng đi hết khuyết điểm này đến tật xấu kia,
thì ngay lập tức ta có thể tránh sang một bên và để cho Đức Giêsu sống trong
ta. Nghĩa là ta "chuyển hộ khẩu" để sống trong người khác, chẳng hạn
như trong những người chung quanh ta. Đúng vậy, ta sống viên mãn cuộc sống của
người đó".
Hãy
yêu mến! Đó là toàn bộ giáo lý của Đức Giêsu. Hãy tinh luyện tâm hồn để ta có
khả năng lắng nghe tha nhân, biết đón nhận các vấn đề và các ưu tư của người bên
cạnh làm của mình, và chia vui sẻ buồn với họ, phá bỏ những hàng rào vẫn còn
gây chia rẽ giữa chúng ta, vượt qua những thành kiến và thói chỉ trích phê
bình, ra khỏi thế cô lập của ta và đặt mình phục vụ những người túng thiếu, cô
đơn, và xây dựng ở khắp nơi sự hiệp nhất mà Đức Giêsu đã muốn.
Nếu
ta sống như thế, Thiên Chúa sẽ lôi kéo ta sống kết hợp với Người ngày càng thân
mật hơn và sẽ làm cho ta kiên vững và hầu như không thể bị tấn công trước những
sai lầm và lôi cuốn của thế gian.
"Nếu
chân anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một chân mà được vào
cõi sống còn hơn là có đủ hai chân mà bị ném vào hoả ngục".
Đức
Giêsu còn bảo ta hãy dứt khoát "chặt đi" bất kỳ sự vật, người hoặc
hoàn cảnh nào có thể là dịp tội cho ta. Đó là ý nghĩa của điều mà Phúc Âm gọi
là "từ bỏ chính mình" (xem Mc 8,34). Ki-tô hữu là người có được lòng
can đảm cần thiết để chống trả các xu hướng ích kỷ, không để cho chúng trở
thành lối sống của mình. Ta hãy ra khỏi con người mình bằng cách yêu mến những
người bên cạnh và chặt đứt mọi dính bén với bất kỳ điều gì không đáng để ta yêu
mến. Ta hãy quét sạch tất cả những gì cần được đưa ra khỏi tâm hồn của ta.
Không có hi sinh nào gọi là quá lớn nếu hi sinh aáy duy trì được sự hiệp thông
của ta với Thiên Chúa. Mỗi xén tỉa sẽ làm nảy sinh trong tâm hồn ta hoa trái
mừng vui, một niềm vui đích thực, niềm vui mà thế gian không biết đến.
18.
Cái giá người môn đệ phải trả - Lm Mark Link.
"Người môn đệ phải sẵn lòng chấp
nhận mọi hy sinh vì nước trời…"
Cuốn phim "A man for all seasons"
(Người thích ứng mọi mùa) được xây dựng dựa theo cuộc đời thánh Thomas More.
Khi Kha Luân Bố khám phá ra Mỹ Châu,
Thomas More mới là một thiếu niên mười mấy tuổi tại Anh Quốc. Chàng theo học
tại Đại học Oxford. Sau khi tốt nghiệp Đại học, chàng dấn thân vào cuộc đời
chính trị. Là một viên chức của triều đình, chàng được thăng quan tiến chức rất
mau lẹ, năm 1529, vua Henri thứ VIII đã phong chàng lên chức Đại pháp quan của
Anh Quốc.
Nhưng thảm kịch đã xảy đến cho Thomas
More. Khi vua Henri VIII ly dị với hoàng hậu và tái kết hôn không đúng theo
luật lệ. Để chống lại bất cứ ai phản đối cuộc hôn này, Henri ra lệnh cho một số
quan chức triều đình ký vào một văn bản tuyên thệ rằng sự tái hôn của ông là
hợp pháp. Ông truyền cho các vị chức sắc này là nếu họ từ chối không chịu ký
vào văn bản ấy họ sẽ bị hạ ngục vì tội phản loạn. Và rồi thảm kịch đã xảy ra
khi ngài Norfold mang văn bản ấy đến cho Thomas More. Ông này chẳng chịu ký bất
chấp biết bao lời thuyết phục khuyên ông thay đổi ý. Cuối cùng, Norfolk không còn
kiên nhẫn được nữa, ông nói với bạn:
"Tôi không biết cuộc kết hôn có
hợp pháp hay không, nhưng thây kệ nó! Thomas ơi, ông hãy nhìn vào tất cả những
kẻ đã ký vào đây! Ông biết rõ những người này mà! Tại sao ông không thể làm như
chúng tôi, nhân danh tình bạn của chúng ta?" Thomas More vẫn từ chối. Ông
không muốn tuyên thệ điều gì mà tận thâm tâm ông biết là sai trái. Cuối cùng,
Thomas More bị tống giam. Vào ngày 6 tháng 6 năm 1535 ngài đã bị hành hình vì
tội phản loạn.
«««
Câu
chuyện thánh Thomas More làm sáng tỏ lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm
hôm nay: "Nếu tay con làm mất đức tin, hãy chặt nó đi!… Nếu chân con làm
con mất đức tin, hãy chặt phăng nó đi!… Nếu mắt con làm con mất đức tin, hãy
móc nó quẳng đi! vì thà rằng con bị chột mà vào nước trời hơn là còn toàn vẹn
hai mắt mà bị ném vào hoả ngục".
Chúa
Giêsu không bảo chúng ta chặt chân tay, móc mắt, theo nghĩa đen, Ngài chỉ muốn
dùng những thành ngữ quen thuộc của thời đại Ngài để nhấn mạnh một điểm quan
trọng là:
Các
môn đệ Ngài phải sẵn lòng hy sinh tất cả sự gì cần thiết để giữ mình khỏi phạm
tội, phải sẵn lòng hy sinh cả những gì quí báu nhất đối với ta để được vào nước
trời. Trong trường hợp Thomas More, điều này có nghĩa là hy sinh cả mạng sống
mình.
Chúng
ta chớ vội nghĩ rằng vì Thomas More là một vị thánh nên ngài đã tự hiến dâng
đời sống một cách dễ dàng. Chúng ta hãy lắng nghe những lời trong lá thư ngài
viết cho cô con gái của ngài ít lâu sau khi ngài bị giam, những lời này sẽ cho
ta biết cuộc đấu tranh khủng khiếp xảy ra bên trong tâm hồn ngài như thế nào:
"Meg thân yêu, Bố sẽ không bất
tín với Chúa, dù bố cảm thấy yếu đuối khi sắp phải đương đầu với nỗi sợ hãi. Bố
nhớ lại sự kiện thánh Phêrô bắt đầu chìm xuống nước vì thiếu đức tin, khi thấy
gió thổi mạnh, bố sẽ bắt chước ông kêu cầu Chúa Kitô nài xin Chúa giúp đỡ Bố.
Bố tin rằng Chúa sẽ đặt đôi tay thánh thiện lên Bố và ngay trong cơn bão biển
Chúa sẽ giữ cho bố khỏi bị chìm xuống… vì thế hỡi con gái yêu của bố, con đừng
bối rối âu lo về bất cứ điều gì sẽ xảy đến cho bố trong cuộc sống dương trần
này, không điều gì xảy ra ngoài ý Chúa, Bố rất xác tín rằng bất cứ điều gì tồi
tệ xảy ra, thì chắc hẳn đó là điều tốt nhất đấy".
Bài
Phúc Âm hôm nay mời gọi chúng ta đặt lại câu hỏi này: chúng ta có biết phòng
tránh tội lỗi để đạt nước trời không? Chúng ta có biết canh chừng đối với bất
cứ điều gì có thể khiến chúng ta đánh mất nước trời không?
Trong
một lá thư của mình, một vị thánh danh tiếng người Pháp, Francis de Sales, đã
nói về vấn đề cám dỗ và việc canh phòng chống lại tội lỗi như sau;
"Mặc
cho quân thù gào thét ở ngoài cửa,
mặc
cho nó gõ, nó la, nó gào, nó làm bậy làm bạ.
chúng
ta biết chắc rằng nó không thể đi vào nhà trừ khi chúng ta bằng lòng mở cửa cho
nó". Vậy chúng ta cần tỉnh thức đề phòng tội lỗi. Khi cơn cám dỗ xảy đến –
và chắc chắn nó sẽ đến chúng ta hãy nhớ lại những lời thánh Thomas More đã viết
cho Meg con gái ngài:
"Bố sẽ nhớ lại sự kiện thánh
Phêrô bắt đầu chìm xuống vì thiếu đức tin khi thấy gió mạnh thổi lên, và bố
cũng sẽ bắt chước ngài kêu lên với Chúa Kitô và khẩn cầu Ngài giúp đỡ. Bấy giờ
bố tin rằng Chúa sẽ đặt tay lên người bố và giữ bố khỏi chìm xuống giữa cơn bão
biển".
Tóm
lại, sứ điệp của Chúa Giêsu ẩn chứa trong bài Phúc Âm hôm nay như sau; chúng ta
phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được nước trời. Và
chúng ta cũng phải sẵn lòng chấp nhận mọi hy sinh để tránh tội và để đạt được
nước trời. Và chúng ta cũng phải sẵn sàng bắt chước Thomas More Người đã hy
sinh mạng sống mình vì nước trời.
Chúng
ta sẽ kết thúc với những lời rút ra từ bài hát cổ xưa mà Giáo hội thường xử
dụng trong Kinh nhật tụng giờ Kinh chiều của một số ngày Chúa Nhật trong năm
phục vụ.
"Nghe
danh hiệu Giêsu, mọi gối phải quì xuống, mọi miệng lưỡi phải xưng tụng Ngài là
Vua vinh quang…” Hãy để Ngài ngự trị tâm hồn bạn. Hãy để Ngài chinh phục những
gì chưa thánh thiện, những gì chưa đúng. Ước gì bạn biết lên tiếng gọi Ngài
trong cơn cám dỗ. Hãy để Ngài che phủ bạn bằng ánh sáng và quyền năng của Ngài.
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu sẽ trở lại trong vinh quang của Cha Ngài, để
ngự trị trên trái đất. Ngài là Thiên Chúa cứu độ. Ngài là Đấng Kitô Chủ tế
chúng ta".
19.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
HUẤN
DỤ TRUYỀN CHO CỘNG ĐOÀN KITÔ HỮU
(9,38-50)
Những
gì chúng ta đang đọc xem ra không có liên hệ rõ ràng với diễn tiến trước đó
(9,33-37). Người ta vẫn có thể nghĩ rằng Chúa Giêsu đang ngồi dạy dỗ các môn
đệ. Tuy nhiên rõ ràng các vấn đề đang được bàn đến vượt quá giới hạn của vấn đề
trước đó. Với tư cách một giáo lý viên giàu kinh nghiệm, Maccô đã gom góp ở đây
nhiều huấn lệnh Chúa Giêsu nói với cộng đoàn Kitô hữu. Sự thu gom này được xác
định bởi cách dùng một phương thức cổ xưa của các nền văn minh truyền khẩu để
giúp cho dễ nhớ: đó là kỹ thuật dùng các “từ móc”. Các lời nói của Chúa Giêsu
thoạt đầu không liên hệ với nhau đã được ghép lại với nhau bằng một từ, một lối
diễn tả. Việc này được khởi đầu bằng lối nói: “Vì danh Thầy”. Lối nói này kết
bốn câu lại với nhau: 37,38,39 và 41. Tiếp đó, một chuỗi lời nói được dệt chung
quanh các từ “làm cớ cho sa ngã” mà người ta gặp bốn lần ở các câu 42,43,45 và
47. Cuối cùng hai đơn ngữ “lửa” và “muối” được dùng để làm cho ba câu 48,49 và
50 ăn khớp với nhau.
Lời
giáo huấn đầu tiên của Chúa Giêsu được nói lên nhân việc can thiệp của Gioan,
một trong nhóm Muời Hai (c. 38). Lời đề nghị của một trong hai anh em vừa mới
được phong biệt danh “Con của Sấm Sét” (3,17) quả đáng ngạc nhiên. Nó bộc lộ
cho thấy một tính cách bất bao dung nào đó nói nhóm các tông đồ. Nhóm này có
khuynh hướng khai trừ những kẻ đang đứng ngoài lề, dù họ không hoàn toàn bộc lộ
ra điều này. Chúa Giêsu không cổ vũ “anh thần pháo đài” (khép kín) trong Giáo
Hội Ngài. Ngài nhắc nhở các môn đệ phải biết cởi mở với người anh em lân cận
(c. 39). Ngài truyền họ phải rộng mở tiếp đón tối đa mọi kẻ công khai thù
nghịch với họ. “Ai không chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta” (c. 40). Ta hãy
nghĩ đến tầm quan trọng của những lời này đối với một Giáo Hội như Giáo Hội của
Maccô hiện đang vị sự bách hại dồn vào thế co cụm, khép kín. Chúa Giêsu còn đi
xa hơn với thí dụ về ly nước, dùng để giải khát và tăng sinh lực theo quan niệm
Đông phương. Hành vi bác ái nhỏ nhặt nhất mà một kẻ đối nghịch làm cho một Kitô
hữu trong một khu vực hết sức thú hằn với nhau, mang rất nhiều giá trị. Chúa
Kitô sẽ nhớ đến hành vi ấy trong ngày chung thẩm (x. Mt 25, 31-46).
Trong
các câu tiếp theo (42-47) cung giọng thay đổi và trở nên nặng nề nghiêm trọng
hơn. Một chuỗi lời nói tác động vào nhau nhờ động từ tiếng Hy Lạp “làm cớ cho
sa ngã” (c. 42a). Lời cảnh giác rất nghiêm trọng. Dứt khoát không được “dựng
lên chướng ngại” trên con đường của những kẻ tin Chúa. “Những tín hữu bé mọn
này” chính là các Kitô hữu mà đức tin phôi thai của họ vẫn còn mỏng manh. Mọi
“gương xấu”, theo nghĩa mạnh có thể ví như bẫy gài dưới chân họ, đều sẽ gây tai
hại trầm trọng cho lòng trung thành của họ. Phải tuyệt đối đề phòng mọi việc
làm gương xấu. Vì thế mỗi anh em trong cộng đoàn phải chú tâm đến tương giao
giữa mình và kẻ khác. Chúa Giêsu ra lệnh tới ba lần: “Nếu tay con... nếu chân
con... nếu mắt con làm cớ cho con sa ngã”, thì hãy cắt, chặt, móc nó đi! (c.
43a; 45a; 47a). Tay, chân, mắt là những bộ phận chính của cơ thể dùng để liên
lạc. Mỗi bộ phận này đều tác động đến cả thân thể. Nếu chúng là cớ gây thương
tổn cho kẻ khác thì thà quẳng chúng đi. Đã có trường hợp cắt một phần chi thể
bệnh hoạn có thể cứu sống toàn bộ cơ thể. Về mặt thiêng liêng, vấn đề này rất
trọng yếu. Thà cụt tay, thọt cẳng, chột mắt mà được vào chốn trường sinh còn
hơn là nguyên vẹn mà bị quẳng vào “hỏa ngục là nơi sâu bọ không hề chết và lửa
không hề tắt” (c. 43b; 45b; 47b-49).
Các
lời nói này xem ra quá cứng cỏi nếu không muốn nói là tàn bạo! Ở đây người ta
gợi lên số phận của kẻ tội lỗi bằng những hình ảnh về cái chết vĩnh cửu kèm
theo các nhục hình gớm ghiếc (sâu bọ và lửa). Chúng ta hãy nhìn kỹ hơn vấn đề
này. Trước hết chúng ta hãy bỏ đi lối đọc theo nghĩa đen các hình ảnh được sử
dụng. Không bao giờ Giáo Hội đọc thấy nơi trong Phúc Âm này lời kêu gọi hủy
hoại thân thể. Đối với mỗi Kitô hữu, đây chính là lời mời gọi thúc bách họ tự
thoát khỏi những gì xấu xa nơi bản thân để đảm bảo phần rỗi cho mình. Quả thế,
điều này có liên quan đến sự thành công hay thất bại của cuộc sống loài người.
Một bên là cuộc sống đời đời vô tận với Chúa Kitô Phục Sinh, còn một bên là
“địa ngục”, từ này muốn nói lên điều gì? Đây là hình ảnh bắt nguồn từ thụ kiến
bi đát về hỏa ngục xét như một tình trạng hủy diệt đớn đau những kẻ tội lỗi
cứng lòng! “Địa ngục” ở đây là một thung lũng sỏi đá nằm ở mạn nam ngọn đồi của
thành Giêrusalem. Vào thời Chúa Giêsu, kể từ các cuộc điều tra dân số, chốn
hoang dã ấy được dùng làm chỗ xả rác công cộng của thành đô. Ở đây người ta có
thể thấy hàng đống rác rưởi, thú vật hoặc cây cối bị dòi bọ đục khoét; thường
xuyên người ta thiêu cả những xác người. Tóm lại, đối với những kẻ do Thầy với Chúa
Giêsu, địa ngục gợi lên số phận thích đáng dành cho những kẻ khép lòng lại
trước lời kêu gọi của Thiên Chúa. Thị kiến kinh khiếp này đã từng được tiên tri
Isaia mô tả: “Trong khi bước ra (khỏi thành phố), người ta có thể trông thấy
các thây người từng nổi dậy chống đối ta (Chúa phán). Dòi bọ rúc rỉa chúng sẽ
không chết, lửa thiêu đốt chúng sẽ không tắt. Mọi xác thịt sẽ nhờm tởm chúng
(Is 66,24).
Quang
cảnh được hình dung ở đây tác động mạnh đến các trí tưởng tượng, nhất là từ
thời Dantê (thi sĩ nổi tiếng người Ý thể kỷ XIV) đối với nhiều người hỏa ngục
và lửa thiêu kinh khiếp nơi đó từ một hình ảnh tượng trưng đơn sơ đã biến thành
một thực tế không thể nào chịu nổi. Vì vậy cần phải tái lập lại chân lý. Dù cho
lối dùng khoáng đại của nó, Kinh Thánh cũng chỉ muốn diễn đạt một ý tưởng đơn
giản đó là Thiên Chúa công bình sẽ trừng phạt tất cả những kẻ hoàn toàn khép
lòng lại trước Tình yêu Ngài. Họ sẽ không được hiệp thông với Chúa, bị xa cách
Chúa Kitô và các thánh. Mặc dù được Kinh Thánh xác nhận, hỏa ngục vẫn còn là
một thực tại mầu nhiệm, khó dung hòa được với hình ảnh một vị Thiên Chúa Tình
yêu!
20.
Chú giải của Noel Quesson.
Trên
con đường đi Xêdarê - Philípphê, nơi Phêrô đã tuyên xưng đức tin, xuyên qua xứ
Galilê chỗ Người đã rao giảng Tin Mừng, cho đến Giêrusalem, tới nơi đó Người sẽ
chết và Phục sinh, Đức Giêsu không đi một mình. Con đường của "Con
Người" cũng là con đường của các môn đệ. Chính, chúng ta cũng đi trên con
đường đó theo chân Đức Kitô:
-
Tuyên xưng đức tin của phép rửa tội, bằng cách sống Tin Mừng cho đến cuộc vượt
qua riêng của chúng ta, đó là sự chết và Phục sinh của mọi người. Trong trình
thuật này, Maccô góp nhặt những lời giáo huấn của Đức Giêsu đã giảng dạy trong
nhiều dịp khác nhau và bàn về nhiều vấn đề khác nhau. Phần lớn những lời giảng
dạy của Đức Giêsu xoay quanh một chủ đề duy nhất: Đó là những đòi hỏi phải có
khi chúng ta tin nơi Người. Tin nơi Đức Giêsu, đó là đi theo Người đến những
nơi mà Người đã đi qua. Cuộc sống thực tế của các môn đệ, luân lý Kitô giáo
không phải là một "luật lệ" được phép hay bị cấm đoán, mà là một sự
tham dự vào cách sống của Đức Giêsu.
Ông
Gioan nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy: Chúng con thấy có người lấy danh
nghĩa Thầy mà trừ quỷ”.
Chính
Gioan đã tự nhận là Người môn đệ được Đức Giêsu thương yêu (Ga 21,20). Trong số
12 môn đệ, ông có vẻ hiểu Đức Giêsu nhiều nhất, và là người thân cận nhất của
Đức Giêsu.
Trên
đường đi, đây là một sự kiện sống động, một “biến cố" nhỏ gây ra một phản
ứng. Trong cuộc sống hằng ngày, đức tin đích thực phải được sống động qua những
tình tiết ngẫu nhiên. Hôm đó, đã có gì xảy ra trên đường đi của các Ngài?
Gioan
đã thấy một "người trừ quỷ" mà không thuộc nhóm của các ông. Tin Mừng
ghi lại việc các môn đệ của Chúa đã thử trừ quỷ vài hôm trước, khi vắng Đức
Giêsu (Mc 9,18).
Nhưng
các ông đã thất bại. Và vì tiếng tăm của Đức Giêsu đã lan rộng, nên người ta
cũng dễ hiểu tại sao một người trừ quỷ lạ mặt đến lượt mình cũng có thể tập trừ
quỷ. Qua văn chương cổ, chúng ta cũng biết rằng, người Do Thái và ngoại đạo đã
trừ quỷ cũng như những nhà phù thủy ngày nay, nhờ pháp thuật rất phổ biến vào
thời Đức Giêsu (Cv 8,18).
Dĩ
nhiên, ngày nay, câu hỏi của Gioan về việc trừ quỷ sẽ được đặt ra một cách
khác, nhưng câu hỏi này vẫn mang tính thời sự, dù bên ngoài có vẻ trái ngược.
Ngày nay, cũng như vào thời Đức Giêsu và Gioan vẫn có "những người trừ
quỷ”. Những con quỷ thời nay như chúng ta biết rõ, chúng rất đông.
Thí
dụ, việc đánh mất ý thức luân lý, khinh thường sự sống, khai thác những người
yếu kém và nhỏ bé không tự vệ được nhưng cách đối xử phân biệt chủng tộc, sự
phân chia của cải không đồng đều, những đồng lương chết đói, mất cảm thức đích
thực về Thiên Chúa, tôn thờ các thần tượng. Đứng trước những "con
quỷ" này, chúng ta cũng biết như Giao thời ấy, dù trẻ, già, lớn, bé... tất
cả đều phải "khử trừ" sự dữ này và cố tiêu diệt nó, bằng cách làm
việc theo nghề nghiệp của mình, bằng các tự nguyện dấn thân vào một phong trào.
Chúng
con thấy có người lấy danh nghĩa Thầy mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì
người ấy không theo chúng ta.
Những
người đó không phải là Kitô hữu. Họ không thuộc nhóm chúng ta, phe phái của ta.
Hãy cho xem giấy tờ? Bạn không phải là người Việt, không phải Công giáo, không
phải là người sống đạo... hay bạn không thuộc nghiệp đoàn của tôi, tông phái
của tôi, bạn là phe tả phe hữu, bạn là người bảo thủ, cấp tiến... Vậy thì tôi
không nghe bạn nói. Nếu có thể, tôi sẽ làm bạn phải im tiếng, tôi sẽ ngăn cản
không cho bạn hành động.
Quả
thực, óc biệt phái vẫn chưa chết. Thái độ chia rẽ vẫn tồn tại trong Giáo Hội, cũng
như đã có trong đầu óc các tông đồ. Thời đó, Nhóm Mười Hai cứ mải mê ghen tương
tranh cãi nhau cách nhỏ nhen về ngôi thứ địa vị.
Đức
Giêsu vừa loan báo về sự thương khó của Người. Người sẽ trở nên "kẻ sau
rốt, làm đầy tớ mọi người". Người vừa khuyên các môn đệ phải sẵn sàng phục
vụ và đừng tìm kiếm chỗ nhất. Thế mà Gioan, một môn đệ được coi là thân cận
nhất, bây giờ lại tỏ vẻ phản ứng. Phản ứng của ông là phản ứng muốn thống trị,
muốn quyền lực, muốn nắm độc quyền. Ông muốn giữ cho riêng minh "Quyền lực
của Đức Kitô". Chúng ta không nên xét đoán các tông đồ, cũng đừng xét đoán
ai cả. Chúng ta hãy nhìn vào chính bản thân mình.
Trình
thuật ngắn gọn này, bề ngoài tầm thường, nhưng nội dung đề cập đến một trong
những vấn đề nóng bỏng thời sự nhất: Hồng ân cứu rỗi của Đức Kitô chỉ có hiệu
lực bên trong những biên giới "thấy được" của Giáo Hội hay sao?
Trước
câu hỏi mang tính thời sự đó, câu trả lời của Đức Giêsu sẽ ra sao?
Đức
Giêsu bảo: "Đừng ngăn cản người ta, vì không ai lấy danh nghĩa Thầy mà làm
phép lạ rồi ngay sau đó lại có thể nói xấu Thầy. Quả thật, ai không chống lại
chúng ta là ủng hộ chúng ta".
Thưa
không! Nhóm Mười Hai không phải là nhóm duy nhất nhận lãnh Thần Khí của Thiên
Chúa: “Bên ngoài phòng hội của các bạn, Thần khí thổi qua, bất ngờ và tự do như
gió" (Ga 3,8).
Từ
thời Môsê, tinh thần ngôn sứ đã được phổ biến rộng rãi, và người ta không thể
ngăn cản sự tỏ hiện này, kể cả bên ngoài "nhóm" (Ds 11,25-29). Và cả
bên ngoài những kẻ "đang ở trong lều”. Và Môsê đã ước mong ân huệ của thần
khí cần được ban cho tất cả. Ong đã nói: "ôi ước gì Thiên Chúa có thể đặt
Thần Khí của Người trên họ, để làm cho toàn thể dân Người trở thành một dân tộc
ngôn sứ. Xin Chúa cho những "người của ‘Thần Khí’ xuất hiện trên măt đất
chúng con".
Không!
Người ta không thể xiềng xích Thần Khí được. Thần Khí là tự do. Thần Khí không
bị ràng buộc bởi một nghi lễ nào cả. Thần Khí hành động ở bên ngoài những cấu
trúc của chúng ta. “Người linh ứng cho cả những ngôn sứ ở bên ngoài" nhóm,
bên ngoài Giáo Hội. Câu nói của Đức Giêsu "các con đừng ngăn cản người
ấy" đã nói rõ ràng phẩm chất Giáo Hội mà sứ vụ là bảo đảm đức tin chân
chính, phải tôn trọng sự bộc phát của Thánh Thần nơi mỗi người được rửa tội, và
cả nơi mỗi người không nằm trong những cơ cấu hữu hình của Giáo Hội.
Chúng
ta thán phục quan điểm quảng đại của Đức Giêsu, đối nghịch với óc bè phái và
bất khoan dung. Thần Khí nào đang ngự trị trong chúng ta? Có phải Thần Khí của
Đức Giêsu không?
Lạy
Chúa, xin ban cho chúng con một Thần Khí cao cả quảng đại, thông sáng, bao la
như Thần Khí của Thiên Chúa, rộng mở như Thần Khí của Chúa... Thần Khí đó thổi
từ bên này qua bên kia thế giới, làm vỡ đổ tinh thần cục bộ của chúng con. Xin
Chúa hãy làm chúng con trở nên Công giáo đích thực, nghĩa là "những con
người phổ quát", "nhưng con người biết thông cảm những khác
biệt" như Công đồng Vaticanô II đã nhắc nhở chúng con: "Chúng ta cần
cổ vũ ngay trong lòng Giáo Hội sự trìu mến, tôn trọng và hãy hòa thuận với
nhau, bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng. Chúng ta cởi mở với những người
anh em tuy chưa sống hiệp thông trọn vẹn với chúng ta. Chúng ta mở rộng tới
những ai đang bảo tồn các yếu tố tôn giáo và nhân bản quý giá trong truyền
thống riêng của họ" (GS 9,2).
Các
bạn có nhớ không? Đây là sứ điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II vào
ngày ngài được tấn phong Giáo Hoàng. "Các bạn đừng sợ! Hãy mở rộng biên
giới của các bạn". Phải chăng chúng ta tự nhiên dễ lên án những ai không
thuộc phe chúng ta, những ai không suy nghĩ như chúng ta? Chúng ta có thưởng
thức được phần chân lý mà đối thủ chúng ta nắm giữ, nhũng điều tốt mà họ làm
được, những thành công nhân bản và xã hội mà họ đã thực hiện không?
Đừng
dập tắt ngọn lửa đang cháy, nó phải thiêu đốt thế gian (Lc 12,49).
Ai
cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đấng Kitô, thì Thầy bảo
thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.
'Một
chén nước’, không có gì đáng kể. Đó là biểu tượng cho một việc phục vụ nhỏ nhất
mà không có thể giúp người khác: Chỉ có một chén nước. Đó là “phàm tước"
lạ thường của người môn đệ: "Người ấy thuộc về Đức Kitô". Người tín
hữu bé nhỏ nhất cũng đại diện cho Đức Kitô. Người đồng hóa mình với người Kitô
hữu nhỏ bé nhất.
Thánh
Matthêu sẽ lấy lại đề tài này trong diễn từ nói về ngày thẩm phán (Mt
25,31-45). "Những gì các ngươi đã làm cho một trong những anh em bé nhỏ
nhất của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đó là sự lớn lao của
mỗi hành vi nhỏ bé của ta, không có gì là nhỏ bé cả. Tôi đã bỏ biết bao cơ hội?
Ai
làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối
đá lớn vào cổ mà quẳng xuống biển còn hơn.
Sau
những lời khuyên luận lý tích cực ("cho một chén nước"), giờ đây là
sự cảnh giác tiêu cực ("không được làm cớ cho kẻ khác sa ngã"). Nhưng
thực ra, đây chỉ là một cách đối xử căn bản: Quan tâm đến kẻ khác.
Ở đây chúng
ta khám phá ra một khía cạnh mới của Đức Giêsu: Ngoài tinh thần rộng mở, chúng
ta cũng gặp được một sức mạnh bên trong, và khả năng sử dụng mãnh lực đó của
Chúa. Thực vậy, sự khoan dung của Đức Giêsu không phải là sự lãnh đạm đối với
điều ác. Nếu người khuyên chúng ta phải khoan dung đối với điều thiện được thực
hiện bên ngoài nhóm của chúng ta, Người cũng lấy làm bất bình khi thấy người ta
có thể lôi kéo một người khác vào sự ác.
Nếu
tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi còn hơn. Thà cụt tay mà được vào
cõi trường sinh, còn hơn là có đủ cả hai tay mà phải sa hỏa ngục, phải vào lửa
không hề tắt.
Chỉ
mình Đức Giêsu mới có quyền nói những lời phi thường này. Chỉ mình Người mới
thực sự biết tội lỗi là gì. Vấn đề này thật là nghiêm trọng và bi thảm đối với
Người. Cuộc sống đời đời đáng cho chúng ta dành mọi hy sinh. Chúng ta có thể
chọn lựa, dứt khoát và tuyệt đối như thê không? Dù là những kiểu nói vùng
Sê-mít có vẻ quá mạnh, nhưng chúng ta cũng không nên làm nhẹ bớt đi ý nghĩa của
những câu đó.
21.
Chú giải của Fiches Dominicales.
“Ở NHÀ”, VÀI LỜI NHẮN NHỦ ĐỨC GIÊSU
GỞI ĐẾN CỘNG ĐOÀN CÁC MÔN ĐỆ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Đi theo Con Người
Chúng
ta vẫn "ở nhà" tức tại Caphácnaum, nơi đây mang một ý nghĩa tượng
trưng, nghĩa là nơi Đức Giêsu dạy dỗ riêng cho các môn đệ. Đức Giêsu dừng chân
ở đây trên đường lên Giêrusalem. Người sẽ chịu cuộc tử nạn mà trước đây Người
loan báo hai lần tại thành này.
-
Đặt trong bối cảnh trên đường lên Giêrusalem, chúng ta sẽ rất dễ hiểu những lời
Đức Giêsu. Trong "Tin Mừng theo thánh Maccô, B. Standaert nhận xét như
sau: "Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ nạn của Đức
Kitô thật đáng suy nghĩ. Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích dẫn luật lệ
trong Kinh Thánh này nọ, ông không nhìn nhận nền tảng đời sống luân lý Kitô
giáo nào khác ngoài việc noi gương bắt chước Đức Kitô. Những trình thuật lớn
loan báo số phận của Con Người thật ra không phải là những lời khuyến khích,
nhưng khởi đi từ thân phận Đức Kitô, ta có thể hiểu ra những việc làm cần thiết
mà người Kitô hữu phải tuân giữ. Ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống thực
hành này là quyết liệt, không khoan nhượng. Thập giá hiện diện không những
trong việc đảo lộn thân phận, làm cho người lớn nhất trở nên kẻ phục vụ mọi
người, mà còn trong khả năng dám chặt tay, chặt chân, móc mắt bỏ đi, nếu những
chi thể này làm cớ sa ngã”. (Cerf, tr. 78-79)
Những
lời Chúa nói được Maccô thuật lại còn vượt ra ngoài phạm vi các môn đệ, để nhắm
đến các cộng đoàn Kitô hữu. Điều này có thể làm cho óc suy luận kiểu Tây phương
của ta kinh ngạc và lạc hướng. Điều quan trọng trong các những lời Đức Giêsu
nói, không phải là những đề tài, mà là những từ đặt trong ngoặc kép, “nhân
danh" Đức Giêsu, trong phần đầu đoạn Tin Mừng này, “kẻ bé mọn"và "làm
cớ sa ngã" trong phần cuối.
2.
Dẹp bỏ tinh thần bè phái.
Giáo
huấn đầu tiên của Đức Giêsu phát xuất từ phản ứng bè phái của Gioan, con ông
Giêbêđê, có biệt danh là "con của sấm sét" (3,17). "Thưa Thầy,
chúng con thấy có người lấy danh Thầy, mà trừ quỷ. Chúng con đã cố ngăn cản, vì
người ấy không theo chúng ta”. Đức Giêsu không đồng ý, Người cảnh giác các môn
đệ về nguy cơ muốn chiếm độc quyền về đức tin và Thánh Linh J. Hervieux cắt
nghĩa: “Đức Giêsu không chấp thuận cho Hội Thánh của Người có "tinh thần
kín cổng cao tường" "tinh thần pháo đài”. Lệnh của Chúa là phải mở
rộng vòng tay đón tiếp hết thảy những ai không ló ra thù nghịch với mình.
"Ai không chống lại chúng ta, ủng hộ chúng ta”. Chắc hẳn những lời này rất
quan trọng đối với một Hội Thánh như cộng đoàn của Maccô, vì lú c đó cuộc bách
hại thúc đẩy họ co cụm lại, sống kín cổng cao tường".
Chúa
còn đẩy ý tưởng đó đi xa hơn, nên nêu thí dụ "ly nước lã" Một cử chỉ
nhỏ bé nhất được thi hành giúp các môn đệ Người "vì lẽ anh em thuộc về
Đấng Kitô" có giá trị trước mặt Chúa: "người đó sẽ không mất phần
thưởng đâu”.
3.
Dám liều chọn lựa hy sinh.
Giọng
điệu còn trở nên nghiêm trọng hơn với một chuỗi dài câu được liên kết bằng ‘từ
mấu chốt’: "làm cớ sa ngã”.
Trước
hết, một lời cảnh cáo nghiêm khắc cho những người dựng lên chướng ngại vật, làm
cho những “kẻ bé mọn" (tức là những tín hữu mà đức tin còn non yếu) bị vấp
ngã. Ta còn nhờ thánh Phaolô đã cống hiến một phần lớn thư của Người bàn về
nguy cơ làm cớ sa ngã. Khi giải thích cho những Kitô hữu đang hoang mang ở Côrintô
rằng họ đã được giải phóng khỏi những luật lệ Do thái giáo, thánh tông đồ liền
dặn thêm: "Nhưng hãy coi chừng kẻo sự tự do của anh em nên dịp cho những
người yếu đuối sa ngã... Thế là sự hiểu biết của bạn làm hư mất một người yếu
đuối, một người anh em mà Đức Kitô đã chịu chết để cứu chuộc".
Hôm
nay từ miệng Đức Giêsu, chúng ta cũng đón nhận giáo huấn đó. Vào lúc, Đấng
Mêsia-Tôi Tớ, đi lên Giêrusalem để trao nộp mạng sống vì yêu thương, Người long
trọng tuyên bố: Trong cộng đoàn các môn đệ, phải hết sức tôn trọng người nhỏ bé
nhất trong số các anh em của Người.
Kế
đó là ba lời cảnh giác đối với ba chi thể của ta, vì chúng có thể lôi kéo người
môn đệ sa ngã: "Nếu tay anh... Nếu chân anh... Nếu mắt anh...”
M.
Quesnel tự hỏi: "Sao chỉ có ba chi thể đó? Chắc hẳn vì chúng tiêu biểu cho
những gì loài người thường vi phạm, đó là trộm cướp, bạo lực, ước muốn
xấu" (Mc 7, 21-22). Ngoài ra, tay mắt và chân là thứ mà ta có từng đôi, mà
nếu mất đi một thì cũng không đến nỗi tàn phế. Việc hài tên chúng lần lượt từng
cái một là một kiểu nói hùng biện có tác dụng mạnh đối với người nghe.
Thật
ra cách nói khoa trương cũng không phải là không có trong những câu có hình
thức mâu thuẫn này. Hội Thánh không bao giờ giải thích theo nghĩa đen; ngôn ngữ
thì đầy hình ảnh và có tác dụng là nhờ những câu đối lập nhau. Géhenne là thung
lũng sâu khó xuống được, nằm ở phía dưới thành Giêrusalem, là nơi người ta đốt
những rác rưởi, đồ phế thải, nên ở đó luôn xông lên mùi nồng nặc kinh khủng,
như vậy, Géhenne đối lập với sự sống hay Nước Thiên Chúa. Mọi người cần tránh
xa nó, vì đó là nơi tiêu huỷ tận diệt. Trái lại, sự sống và Nước Thiên Chúa là
một thách thức đáng cho ta tận dụng mọi nỗ lực để đạt tới. Tất cả những gì làm
ta tách xa sự sống và Nước Thiên Chúa đều xấu xa. Sự sống và Nước Thiên Chúa ấy
đáng cho ta quyết tâm lựa chọn, dù có phải thiệt mất một phần thân thể.
(Comment lire un évanglie Marc, Seuil, trang 170).
BÀI ĐỌC THÊM
1.
Rừng cấm
Mọi
câu lạc bộ ưu tuyển, dòng tộc, giáo phái hoặc ghettô, dù chúng thuộc dòng tu
hay triều, thường gây ra và nuôi dưỡng những cơn ganh tị. Mọi cộng đoàn hoặc
nhóm khép kín, co cụm, đều ra sức bám víu vào những đặc quyền, đặc lợi đã có.
Sách
Dân số cung cấp cho ta một thí dụ điển hình. Khi Giosuê ganh tị, bực tức thấy
có hai người nói tiên tri, mặc dầu họ không được uỷ quyền, cũng không được
"thụ phong". Họ là những tay săn trộm trong rừng cấm.
Đây
cũng là một cơn ghen thực sự mà Gioan, đại diện cho Nhóm Mười Hai, mắc phải.
Hãnh diện vì thuộc về nhóm tông đồ tuyển chọn và được quyền xua trừ các thần dữ
nhân danh Giêsu, các ông thấy đặc quyền của mình bị đe dọa bởi ‘một người không
đi theo Đức Giêsu mà làm được các phép lạ’. Các ông giận dữ, chống đối, tố cáo,
đòi lên án. Khốn cho tên cạnh tranh bất lương!
Phản
ứng và câu trả lời của Môsê cũng như của Đức Glêsu, tuy rất vắn gọn, nhưng mang
cùng một ý nghĩa và một giáo huấn trong sáng có thể đưa đến những kết quả khôn
lường. Các anh la lối tức giận vì thấy một điều thiện, một điều tốt được thực
hiện bởi một người không công khai, chính thức thuộc về nhóm "ưu tuyển”,
hoặc thuộc về cộng đoàn của Đức Kitô sao? Trái lại, nào các anh không nên vui
mừng vì thấy Thần Khí Chúa tỏ mình, và thấy thần dữ bị xua trừ sao? Các anh lấy
quyền gì để hạn chế Thiên Chúa can thiệp; tự mình đặt ra những biên giới, những
điều kiện bắt Thiên Chúa phải tuân theo? Các anh nghĩ rằng Thiên Chúa của
Apraham, của Isaac, của Giacóp và của Đức Giêsu, Đấng Thiên Sai, là tư hữu độc
quyền của một dân tộc, một Giáo Hội, một đường lối tu đức, hoặc một đường lối
mục vụ sao?
Trong
lúc họp nhau cử hành Thánh Thể, ta ý tứ đừng tạo ra một "nhóm người sạch”,
và hãy áp dụng cho ta lời Thánh Vịnh: sai có thể nhận ra những lầm lỗi của
mình? Lạy Chúa, xin thanh tẩy con khỏi những tội con không hay biết. Xin gìn
giữ tôi tớ Người khỏi tính kiêu căng: xin cho nó đừng bao giờ chiếm giữ lòng
con”.
2.
Cạm bẫy của ngôn từ "xin" và "cho"
Chúng
ta thường bị mắc kẹt bởi cách dùng ngôn từ: cho và xin. Ta tự nghĩ mình, và chỉ
có mình, là những người cho, vì mình có các bí tích, như thể chúng ta tạo ra và
phân phát các ơn lành do bí tích ban. Nhưng phải nhìn nhận rằng cả chúng ta
cũng chỉ là những người xin khi lãnh nhân hoặc ban các bí tích. Vì lý do thần
học, có một điều ta không dám nêu lên trong lãnh vực mục vụ bí tích, đó là Chúa
Thánh Linh đã hoạt động trong tâm hồn con người trước chúng ta, và rằng Nước
Thiên Chúa luôn vượt ra ngoài ranh giới của Giáo Hội hữu hình. Nhờ hoạt động
của mình, Thánh Linh thực hiện tác vụ ngôn sứ nơi những người nhận lãnh, để mạc
khải cho ta công trình Thiên Chúa thực hiện nơi họ. (..) Nói cách khác, chúng
ta cần học hỏi nơi những người đến với ta hoặc ta đến gặp họ: đó là học để biết
nhìn họ với con mắt khác, để tìm ra một điểm gặp gỡ khác, chứ không chỉ qua các
bí tích. Phải chấp nhận để Thánh Linh được tự do nói với ta qua họ, về Thiên
Chúa và về cách khám phá ra Người.
Vì
những lý do này, mục vụ bí tích không chỉ là mục vụ đức tin hoặc khai mở đức
tin. Nó còn là mục vụ tình thương vô vị lợi, biết đón tiếp và biết lắng nghe.
Chúng ta có thể cải hoá bản thân mình nhờ điều mà những người này nói với ta về
cuộc sống của họ, hoặc nhờ những câu họ hỏi về Thiên Chúa, về Hội Thánh, nhất
là khi lòng họ bị tổn thương, oán giận hoặc những ước muốn mơ hồ.
Đón
tiếp luôn đi đôi với cố gắng để nhận định những mong muốn thầm kín thường được
che giấu bởi một đòi hỏi trực tiếp.
3.
Tự do của Thiên Chúa
(Các Giám mục Pháp,
trong "Lettre aux catholiques de France", Cerf, trang 76-77).
Kinh
nghiệm về việc Phúc âm hoá ngày nay giúp ta có nhận xét sơ khởi này: ngày nay
trong xã hội chúng ta, có một số nơi đang mong đợi điều gì đó từ Hội Thánh, và
họ có thể bày sự mong đợi đó khi tiếp xúc với Hội Thánh bằng cách này hay cách
khác: hoặc đến xin lãnh bí tích rửa tội, hôn phối; hoặc vào lúc, những biến cố
vui mừng hay thử thách xảy ra trong đời họ; hoặc do tình cờ họ gặp một cộng
đoàn Kitô hữu, một nhóm nào hoặc cũng có thể họ gặp một phong trào có tổ chức,
giới thiệu cho họ con đường khai tâm dẫn tới Tin Mừng, tuỳ theo hoàn cảnh sinh
sống của họ.
Ta
không công nhận rằng: những gặp gỡ như vậy thường chất vấn ta và đẩy lùi kiểu
lô-gíc truyền giáo đã in sâu trong tâm trí ta đó sao? Bởi vì theo lô-gíc thương
mại, hoặc lô-gíc chức năng, chúng ta tưởng rằng muốn truyền giáo, Giáo hội cần
phải giữ một thứ luật cung cầu, nghĩa là Giáo Hội ở phía người cung, còn những
kẻ khác, những người mong đợi, ở phía người cầu.
Trong
hoàn cảnh thực tế cũng như trong kinh nghiệm thực tiễn mà Giáo Hội có qua sự
gặp gở những người này, điều gì đã thực sự xảy ra và con đường dẫn tới đức tin
đã diễn tiến như thế nào? Không được phép coi những người mong đợi này như
những khách hàng của Giáo Hội luôn sẵn sàng tiêu thụ điều mà chúng ta bày ra,
theo kiểu lô-gíc thương mại. Trước hết, ta nên nhở, họ là những người nam hoặc
nữ, do lòng mong đợi và sự tìm kiếm, họ làm chứng cho sự tự do của Thiên Chúa
và công việc của Chúa Thánh Linh, Đấng có thể khơi dậy nơi mọi người ước muốn
vượt lên trên những gì họ đang sống. Bằng cách thế, đôi khi gây sửng sốt, họ
nhắc nhở ta rằng địa chỉ hàng đầu cho Phúc âm hoá chính là cuộc sống con người,
rằng sẽ không có Phúc âm hoá nếu không có đối mặt thực sự giữa Tin Mừng Đức
Kitô, mạc khải của Thiên Chúa và sự mong đọi thẳm sâu nơi mỗi người. Nhưng đối
lại, khi hiểu được mong đợi của con người và đáp lại lòng mong đợi ấy, Giáo Hội
có trách nhiệm phải bày tỏ cho thấy, Giáo Hội không chỉ muốn đáp lại những mong
đợi tức thời của họ, mà còn có sứ mạng đã lãnh nhận từ Đức Giêsu, sứ mạng đó là
trình bày và mở đường dẫn họ đến với Người.
Trong
nhiều cộng đoàn và các nhóm khác nhau, Giáo Hội được mời gọi không những phải
đón tiếp rộng rãi và vô vị lợi rnà còn phải tỉnh thức tích cực, để nhận ra
những dấu chỉ bất ngờ của Chúa qua vô số những đòi hỏi của con người thời nay,
đồng thời cũng hiểu rằng những đòi hỏi này kêu gọi có một cuộc khai tâm kéo dài
dẫn đến mầu nhiệm Đức Kitô, Lời Người, các bí tích và sự sống mới mà Người là
nguồn mạch”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét