CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN -B
NGÀY 23/9/2012
“LỜI CHÚA LÀ NGỌN ĐÈN SOI CHO CON BƯỚC,
LÀ ÁNH SÁNG CHỈ ĐƯỜNG CON ĐI”. (Thánh vịnh 119, câu 105).
Tin Mừng Chúa
Giêsu Kitô theo Thánh Marcô (Mc 8, 27-35).
Khi ấy, Chúa Giêsu cùng các môn đệ đi về
phía những làng nhỏ miền Cêsarê thuộc quyền Philipphê. Dọc đường, Người hỏi các
ông rằng: "Người ta bảo Thầy là ai?" Các ông đáp lại rằng: "Thưa
là Gioan tẩy giả. Một số bảo là Êlia, một số khác lại cho là một trong các vị
tiên tri". Bấy giờ Người hỏi: "Còn các con, các con bảo Thầy là
ai?" Phêrô lên tiếng đáp: "Thầy là Đấng Kitô". Người liền nghiêm
cấm các ông không được nói về Người với ai cả.
Và Người bắt đầu dạy các ông biết Con
Người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, sẽ bị các kỳ lão, các trưởng tế, các luật sĩ
chối bỏ và giết đi, rồi sau ba ngày sẽ sống lại. Người công khai tuyên bố các
điều đó. Bấy giờ Phêrô kéo Người lui ra mà can trách Người. Nhưng Người quay
lại nhìn các môn đệ và quở trách Phêrô rằng: "Satan, hãy lui đi! vì ngươi
không biết việc Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người".
Người tập họp dân chúng cùng các môn đệ
lại, và phán: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo
Ta. Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống
mình vì Ta và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình".
Đó
là lời Chúa.
Mục lục:
SUY
NIỆM TIN MỪNG XXIV TN-B
|
||
Tưởng Lầm
|
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
|
Trg 3
|
Tư Tưởng Của Thien Chúa VS
Tư Tưởng Của …..
|
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
|
Trg 5
|
Người Ta Bảo thầy Là Ai?
|
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
|
Trg 7
|
Về Phần Con – Con Bảo Thầy Là Ai?
|
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
|
Trg 9
|
Thầy Là Đức Kitô – Phải
Chịu Giết Chết!
|
Lm. Pet Vĩnh Tiến
|
Trg 11
|
Anh Em Bảo Thầy Là Ai?
|
Lm. John
Nguyễn
|
Trg 13
|
Đức Tin Sống
|
PM. Cao Huy Hoàng
|
Trg 15
|
Thí Mạng Cùi
|
A.M Trần Bình An
|
Trg 17
|
Việc Của Loài Người – Viejc
Của Thiên Chúa
|
Pio X Lê Hồng Bảo
|
Trg 19
|
SUY
NIỆM LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
|
||
Làm Sao Suy Tôn Thánh Giá
Tở Thành Hữu Hiệu
|
Lm Gioan
Nguyễn Văn Ty SDB
|
Trg 21
|
Ba Cuộc Đời – Ba Cách Chết
|
Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
|
Trg 23
|
Biết Ơn Đấng Cứu Chuộc
|
PM. Cao Huy Hoàng
|
Trg 25
|
SUY
NIỆM LỄ ĐỨC MẸ SẦU BI
|
||
Mẹ Đứng Kề Thập Giá
|
Lm. Jos Tạ
Duy Tuyền
|
Trg 27
|
Biết Ơn Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc
|
PM. Cao Huy Hoàng
|
Trg 28
|
THƠ TIN MỪNG
|
||
Yêu Đến Cùng
|
Lm. Khuất Dũng sss
|
Trg 30
|
Đường Đức Kitô Đã Đi
|
Lm. Pet Vĩnh Tiến
|
Trg 31
|
Chết Và Sống Lại
|
Nt Bích Ngọc
|
Trg 32
|
Thầy Là Ai?
|
Scholastica
|
Trg 33
|
Phê-Rô Tuyên Tín
|
Cát Vàng
|
Trg 34
|
Thầy Là Ai?
|
Mic. Cao Danh Viện
|
Trg 35
|
Các Con Bảo Thầy Là Ai?
|
Giuse Nguyễn Văn Sướng
|
Trg 36
|
Thập Giá Cuộc Đời
|
Song Lam
|
Trg 37
|
Con Hiểu Ngài Là Ai?
|
Hương Sion
|
Trg 38
|
Theo Thầy
|
Đỗ Văn
|
Trg 39
|
Hành Động Đức Tin
|
Vincent Khánh Trần
|
Trg 40
|
Đường Tình
|
Hạt Nắng
|
Trg 41
|
Thầy Là Ai?
|
M. Madalena Hoa Ngâu
|
Trg 42
|
Chúa Ơi! Biết Trả Lời Sao?
|
Bâng Khuâng Chiều Tím
|
Trg 43
|
Ngài Là Ai?
|
Nắng Sài Gòn
|
Trg 44
|
Con Đường Chúa Đã Đi Qua
|
AP. Mặc Trầm Cung
|
Trg 45
|
TƯỞNG LẦM
ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng
hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất
đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã
minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung
quanh mặt trời.
Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như
thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không
ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải
ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra
trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt.
Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng
cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị
bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ
nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông
vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa
chân cho các môn đệ.
Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng
sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền
trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan
và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ
Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là
phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng,
được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục
vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may
mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.
Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư
luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của
Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết
Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập
giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.
Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người
cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà
theo Người.
Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn
con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu
đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người
ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì
làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ?
Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh
phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để
cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người
không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người
được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa.
Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn
nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không
phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không
phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật,
là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.
Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập
giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới
tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng
sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng,
thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.
Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ
con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con
người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển
nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.
Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó
chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống
vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng
qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can
đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà bước theo Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?
2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của
Chúa?
3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ
bỏ mình không?
4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?
ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
TƯ TƯỞNG
CỦA THIÊN CHÚA
VS TƯ
TƯỞNG CỦA LOÀI NGƯỜI
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
“Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của
Thiên Chúa,
mà là tư tưởng của người đời.”
Đoạn
Tin Mừng Mác-cô của Chúa Nhật 24 này đầy mâu thuẫn, hay có vẻ như tư tưởng của
đức Giê-su tự mâu thuẫn với chính mình. Đầu tiên Người muốn nghe các môn đệ báo
cáo cho biết người ngoài ca tụng Người thế nào, sau đó các ông lại phải nói lên
mình nhìn nhận Người ra sao. “Thầy là Đấng Ki-tô”, môn đệ Phê-rô tuyên xưng. Đoạn tương ứng
trong Phúc âm Mát-thêu (16,15-20) cho thấy đức Giê-su có vẻ như rất hài lòng với
câu trả lời này. Người từng công khai đề cao Phê-rô trước các môn đệ khác, tới
độ muốn đặt ông làm nền tảng và thủ lãnh của Hội Thánh mà Người sẽ thiết lập.
Tuy nhiên ở đoạn văn này phản ứng của đức Giê-su lại ngược hẳn. Vẫn cùng công
thức tuyên xứng đó, thật là long trọng và chính xác trong ngôn từ, nhưng đức
Giê-su cho thấy: suy nghĩ trong đầu Người và Phê-rô lại rất khác nhau, cách xa
như trời với đất, đối nghịch như giữa Thiên Chúa và Xa-tan. Có thể như thế được
chăng, cùng một công thức nhưng lại được hiểu rất khác nhau như vậy?
Tư tưởng của loài người: Đối với Phê-rô, cũng như đa phần các người Do
Thái đương thời, danh xưng Ki-tô hay Mét-si-a rất gần với nội dung uy quyền và
thống trị… trong công lý và hòa bình. Đấng được Xức Dầu đến trần gian để biểu lộ
quyền lực tuyệt đối của Gia-vê. Trong toàn bộ Cựu Ước, Gia-vê luôn được biết đến
như Đấng dũng lực oai hùng. “Chúa thật là cao cả… khả tôn khả úy hơn chư thần… Trước thiên nhan,
toàn uy phong rực rỡ, trong thánh điện đầy dũng lực huy hoàng… Hãy dâng Chúa
quyền lực và vinh quang” (Tv 95). Nếu ‘Đấng Ki-tô’ phản ánh một Thiên
Chúa quyền lực như thế, thì đương nhiên không thể chấp nhận Người ‘chịu đau khổ… bị loại
bỏ… bị giết chết’. Phê-rô hoàn toàn đúng khi ‘kéo riêng Người ra và bắt đầu
trách Người’. Và cũng sẽ hoàn toàn vô lý đòi những kẻ theo Người phải
‘từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình mà theo… liều mất mạng sống mình’. Dân riêng
trung thành với Người để được thành công, được che chở và mạng sống được bảo vệ.
Tư tưởng của
Thiên Chúa: Đức Giê-su ‘nói rõ điều đó,
không úp mở’ là ‘Đấng Ki-tô’ có bổn phận phải mạc khải về một Thiên Chúa yêu
thương và cứu độ. Do đó, nếu Người có phải chịu đau khổ, bị loại bỏ và giết chết
thì cũng là lẽ đương nhiên. Giê-su Na-da-rét sẽ luôn mãi là một Ki-tô tự hiến
trên thập giá. Ai tin và theo Đấng Ki-tô đó sẽ không làm gì khác hơn là ‘từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo.’ Vì là Đấng Ki-tô biểu lộ một Thiên Chúa
đầy lòng xót thương, nên môn đệ tin nơi Người sẽ không tìm cách tự cứu lấy mạng
sống mình trong an toàn thủ thế, một sẽ hoàn toàn tín thác vào lòng từ ái xót
thương bao la. Mạng sống mà họ ‘sẽ cứu được’, một khi đã tự nguyện ‘liều mất’, sẽ không là gì khác
hơn là một tình yêu nhân ái bao la, cả trong tương quan với Thiên Chúa lẫn với
tha nhân.
Cùng với đức Giê-su,
Phao-lô cho rằng tư tưởng này của Thiên Chúa đối chọi hoàn toàn với tư tưởng của
loài người. “Thật
thế, lời rao giảng về thập giá là sự điên rồ đối với… sự khôn ngoan của thế
gian… nhưng lại là sức mạnh đối với chúng ta là những người được cứu” (1
Cr 1,18-21). Điều làm tôi lo lắng là, bản thân tôi, chưa khi nào cho rằng hai
tư tưởng này lại sung khắc nhau đến thế. Thậm chí tôi vẫn thấy nhấn mạnh trên
uy quyền của Thiên Chúa, hay đề cao một ‘Đấng Ki-tô’ thống trị đâu có gì
là đối kháng với Thiên Chúa cứu độ, hay một Đức Ki-tô chịu đóng đinh. Đức Giê-su
đã ‘cấm ngặt
các ông không được nói với ai về người’ như thế, và còn tỏ ra hết sức
giận dữ khi Phê-rô muốn dùng tư của loài người để lấn át tư tưởng của Thiên
Chúa, tới độ mắng ông: “Xa-tan! Lui lại đàng sau Thầy!”
Còn tôi, trong mục vụ, khi diễn giảng về Thiên Chúa và Đấng Thiên
Sai, biết bao lần tôi đã không ngần ngại nhấn mạnh trên uy quyền và sự công thẳng
của Thiên Chúa, hơn là trên lòng nhân ái yêu thương của Người. Làm như thế tôi
thấy việc mục vụ của mình hữu hiệu hơn, các tín hữu làm lành lánh dữ tích cực
hơn. Thế nhưng liệu tôi có đáng bị Người quở trách như đã từng trách mắng
Phê-rô?
Lạy Chúa là Đấng Cứu Độ! Chúa uy quyền và thánh
thiện nhưng cũng đầy thương xót và từ tâm. Kinh Thánh dạy con cả hai điều,
nhưng mạc khải của đức Ki-tô lại nhấn mạnh trên điều sau này hơn. Chớ gì Chúa
không bao giờ phải quở trách con là Xa-tan chỉ vì con ngăn cản không cho người
khác biết về lòng từ ái vô biên Chúa được biểu lộ qua nhục hình và cái chết của
Chúa trên thập giá. Xin cho con không ngừng tôn vinh và rao giảng về Thánh Giá
cứu độ. Amen
Lm Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
NGƯỜI TA BẢO THẦY LÀ AI?
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc
quyển sách “Cơn
cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách
này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một
con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ
phút cuối cùng.
Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về
một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ
rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã
không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi
cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao người khác. Chàng quyết định
từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người
hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong
trốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say
truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục
đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị
họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu
bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy
mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con
ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ
nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến
thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.
Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để
viết về nhân tính của Chúa Giê-su. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên,
rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng
nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con
người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không
mang lại giầu sang quyền quý ở đời này, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều
người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.
Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay,
luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ
mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của
Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có
chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại,
nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của
họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của
Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.
Vì thế có nhiều người đã không theo đạo vì muôn vàn lý do:
- Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ
hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.
- Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng
buộc bởi quá nhiều lề luật.
- Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công
bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.
- Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa
thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.
Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn.
Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa
mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông
nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán.
Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi
lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình . . .
Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như
vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các
môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi
triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi
qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn
đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống
làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự
do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám
dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.
Với những đòi
hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy,
mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các
môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng:
ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc
đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa
phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.
Vâng cuộc đời
này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ
làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng
nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng
loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người
ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi
chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau.
Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống
vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc
đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ
mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các
tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống.
Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt
ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen
danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ
còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?
Ước gì chúng
ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về
một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
VỀ PHẦN CON, CON BẢO THẦY LÀ AI?
Lm.
Inhaxiô Trần Ngà
Hôm ấy, “Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi tới các làng xã
vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: "Người ta nói
Thầy là ai? " Các ông đáp: "Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ
thì bảo là ông Ê-li-a, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc
8, 27-28)
Như thế, người Do-thái đương thời không biết đích
xác Chúa Giê-su là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm
quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Ê-li-a xưa kia được
đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào
đó.
Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần
chúng về mình, Chúa Giê-su quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? "
Ông Phê-rô trả lời: "Thầy là Đấng Ki-tô." (Mc 8, 29)
Thế là ngoài Phê-rô, dường như chẳng ai biết được
chân tướng của Chúa Giê-su. Phê-rô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của
Thầy mình.
Hôm nay, Chúa Giê-su cũng đặt lại câu hỏi nầy với
mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định của ta về Người: “Về phần con,
Thầy là ai đối với con?”
Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh
niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ,
thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một vị Thẩm Phán khắt
khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giê-su, nhưng
vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự
lễ.”
Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân
tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giê-su là một ông
Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với
ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn
thờ, có nhang đèn hoa trái hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt,
chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”
Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người
khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giê-su là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi
nghĩ đến. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian
nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Ngài… Vâng, lúc đó, chúng
tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Ngài như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm
phao!”
Thế là đối với một số người, Thiên Chúa chỉ là vị
Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu
sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giê-su: “dân nầy tôn kính
Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)
Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu
của Người nhận định về Người như thế.
Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình,
ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Ki-tô là ai, Chúa Giê-su liền bày tỏ
cho họ biết Người chính là Đức Ki-tô, nhưng không phải là một “Đức Ki-tô vinh
thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như
người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Ki-tô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết
thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các
kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống
lại.” (Mc 8,31)
Thế đó, Đức Ki-tô là Đấng yêu thương chúng ta hết
lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình
yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.” (Gioan
15,13)
Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình
yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ
đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa
cũng như không.
Dostoyevsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào
thế kỷ 19, đã tôn Đức Giê-su làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng: “Đối với tôi,
không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp
lý và hoàn hảo cho bằng Đức Ki-tô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi
rằng Đức Ki-tô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức
Ki-tô hơn là chiều theo chân lý”. ( Thư gửi bà Von Vizine )
Lạy Chúa Giê-su,
Nếu hôm nay Chúa
đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:
Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền
tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu
thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.
Vì thế, con xin
chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái
tim con.
Lm.
Inhaxiô Trần Ngà
THẦY LÀ ĐỨC KITÔ – PHẢI CHỊU GIẾT CHẾT!
Lm.
Pet Vĩnh Tiến
Khi thầy trò đang đi tới vùng Cêsarê Philipphê. Chúa Giêsu muốn biết
các môn đệ đang nghĩ gì về ngài, nên hỏi: Người ta bảo thầy
là ai ? Các ông liền
tranh nhau nói: “
Kẻ thì bào Thầy là GioanTẩy Giả, người thì bảo là Êlia, kẻ khác lại rằng Thầy
là một ngôn sứ nào.” Người quay sang hỏi: “Còn các anh, các anh bảo Thầy là ai ?”
Phêrô, vốn tính bộc trực, đại diện cho anh em lên tiếng : “Thầy
là Đấng Kitô.”
Đúng, nhưng chưa đủ, nên Chúa liền nghiêm cấm ngặt các ông nói với bất
cứ ai về Người. Chúa còn cho biết, Người sẽ bị bắt bớ và giết chết, nhưng ba
ngày sau sẽ sống lại. “Ai muốn theo Người thì Phải từ bỏ mình, vác thập, vì Chúa
và Tin Mừng, hy sinh mạng sống, thì sẽ được sống đời đời.”
Chúng ta tự hỏi, Kitô nghĩa là gì ? Tại sao Ngài lại phải chịu đau khổ
và chết đi mới cứu được nhân loại?
I. Kitô nghĩa là gì ? Giữa lúc dân Do Thái
đang phải chịu mọt cổ hai tròng : đế quố La Mã và chính quyền bù nhìn,
thình lình người ta nghe được một tiếng nói như sau : “Thời giờ đã mãn. Nước Thiên Chúa đã đến
gần”. Đối với Chúa Giê su, Thiên Chúa là Tất Cả. Chỉ có Thiên
Cúa mới đáng kể. Nhưng, cũng chính vì thế, mà tất cả mọi người đối với Ngài đều
quan trọng. Tất cả, không trừ ai.
Chúa Giêsu biết và sống với
niềm xác tín rằng Chúa Cha là Tình Yêu vô biên. Chúa Cha là Đấng Tạo Hóa
và Chúa Tể Trời Đất. Ngài là Vua và là Đấng Phán Xét. Ngài thấy và biết tất cả
mọi sự. Tuy nhiên, tiên vàn, Ngài là Đấng Tốt Lành.
Sự xuất hiện của Chúa Giêsu
trong cuộc sống hằng ngày của đan tộc Ngài quả là một đột biến. Ngài dạy dỗ họ
như một kẻ có quyền chứ không như các Thầy thông luật của họ. Dân chúng tuôn
đến với Ngài bởi vì Ngài có quyền năng chữa lành bệnh tật. Những kẻ thù của
Ngài tố cáo Ngài là đã làm các phép lạ do quyền năng của ma quỷ. Họ quyết định
loại trừ Ngài, “
vì người này đã làm nhiều điều lạ lùng ”.
Chúa Giêsu đã chọn cho mình
một số môn đệ. Trong số 12 tông đồ, nổi bật nhát có hai anh em Gioan và Giacôbê
và nhát hơn nữa là Phêrô. Phêrô có nghĩa là Đá.
Hôm nay, trên đường truyền
giáo, Ngài hỏi các môn đẹ : “người ta bảo Con Người là ai ?”. Các ông
lặp lại ý kiến của nhiều ngừoi khác nhau . Lúc đó Ngài mới hỏi các ông : “Phần
các con, các on bảo Ta là ai ? ”. Các môn đệ sợ phải trả lời một câu như thế.
Các ông cảm thấy đây là lúc quyết liệt nhất trong cuộc đời của các ông. Điều
này cũng thường xảy ra cách này cách khác trong cuộc đời của mỗi người. Liệu
mỗi người có chấp nhận Giêsu Nazaret và quyết định về số phận của mình không ?
Phêrô ra phía trước và trả lời : “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt
16, 16). “Kitô” có
nghĩa là “ Đấng được xức
dầu ”. Đây là tước hiệu mà
người Do Thái thờ Chúa Giêsu dành cho Vị Cứu Tinh mà họ hằng mong đợi. Như vậy, Phêrô tuyên xưng rằng Chúa Giêsu, vị Thày nghèo nàn, vô
danh, bị bỏ rơi là chính Đấng Cứu Tinh mà dân Do Thái hằng mong đợi. Phêrô còn
gọi Ngài là Con Thiên Chúa. Có thể trong giây phút ấy, Phêrô chưa hiểu được
trọn vẹn ý nghĩa của lời tuyên xứng của mình. Nhưng Chúa Giêsu khen ngợi ông: “Phúc cho con,
hỡi Simon, vì Cha Ta đã mạc khải cho con điều đó…Và Ta nói cho con biết, con là
Phêrô, nghĩa là Đá và trên Đá này Ta sẽ xây Giáo hội của Ta”.
II. Phải chịu đau khổ và chịu chết. Khác với những gì mà người Do Thái, trong
đó có Phêrô mong đợi Đấng được xức dầu không hét ra lửa, không muốn chiến thắng
thế gian bằng vũ lực và cường quyền, mà bằng hy sinh chịu chết để rồi sống lại
khải hoàn. Con người đã không tin ở lời Ngài. Đó là Nước Thiên Chúa đã đến gần.
Thiên Chúa là Tình Yêu. Ai sống trong tình yêu là sống trong Thiên Chúa và
Thiên Cháu ở trong người đó.
Cả cuojc sống của Chúa Giêsu
là một bài tinh ca đối với Thiên Chúa và đối với con người. Cái chết của Ngài
là tuyệt đỉnh của Tình Yêu ấy. Ngài đã quên mình, phó thác cho Chúa Cha. Ngài
đón nhận mọi sự như từ bàn tay của Chúa Cha. Ngài trả lại mọi sự cho Chúa Cha
với tất cả yêu thương và hiệp nhất với Trái Tin Yêu Thương của Cháu Cha. Ngay
cả viên sĩ quan người La Mã đứng dưới chân thập giá cũng cảm nhận được điều đó.
Ông thốt lên : “Qủa thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,
39).
Ngày thứ ba sau khi Chúa
Giêsu chết, những nguwoif môn đệ khiếp đảm đang tụ họp nhau trong một căn nhà
cửa ngõ đóng kín. Thình lình, họ nhận thức rằng, Chúa Giêsu đang dứng giữa họ,
nói với họ :
“Bình an cho các con. Tại sao các con bối rối như thế ? ... Chính Thầy
đây !”. Không mấy chốc, tâm hồn họ bỗng tràn ngập niềm xác tín
rằng Chúa Giêsu đã sống lại, Ngài đang thực sự sống giữa các ông bằng một Thân
Xác Phục Sinh với những đặc tính khác hẳn với thân xác Ngài trước kia.
Trong buổi
chiều ngày Phục sinh, Chúa Giê-su đã hiện ra với các tông đồ và khi thở hơi
trên các ông, Ngài đã nói: “Các con hãy lãnh nhận Chúa
Thánh Thần”. Năm mươi ngày sau, nhân ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ đã cảm nghiệm được
sức mạnh của Chúa Thánh Thần tràn ngập tâm hồn họ. Do Thánh Thần thúc đẩy, lần
đầu tiên kể từ sau khi Chúa Giê-su chết, họ đã xuất hiện trước đám đông và công
bố: “Thiên Chúa đã cho Đức Giê-su sống
lại và tất cả chúng tôi làm chứng cho điều đó”. Do đó “xin mọi người
hãy biết rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Chúa và Đấng Ki-tô, chính Ngài
là Giê-su mà các người đã đóng đinh”. Với những lời này, các môn đệ đã sẵn sàng
để hoán cải cả thế giới. Họ đã chịu tử đạo vì lời rao giảng của họ.
Các sứ giả của
Đức Ki-tô ngày nay, trong đó có mỗi người chúng ta cũng mang cùng một “Tin Mừng” đến cho mọi dân tộc trên trái đất: Tin Mừng đó là: “Đức Ki-tô đã sống lại”. Cái chết của Ngài không phải là một
lời gĩa biệt mà là một gặp gỡ. Cái chết ấy không là một thối rữa, mà là một trổ
sinh mới. Cái chết ấy không là một cái chết vĩnh viễn, mà là một cuộc sống vinh
hiển.
Lạy Chúa Kitô,
Vị Cứu Tinh của nhân loại bằng con đường vâng phục, chết trên thập gía và sống
lại vinh quang. Chúa là bảo chứng cho tất cả những ai trung thành vác thập giá
mình theo vết chân Chúa. Xin nâng đỡ chúng con trong hành trình rao giảng Tin
Mừng cho mọi người chung quanh. Amen.
Lm. Pet Vĩnh
Tiến
ANH EM BẢO THẦY LÀ AI?
Lm. John Nguyễn
Anh là ai? Tôi là ai? Chúng ta được sinh ra trong
thế gian này để làm gì? Rồi chúng ta sẽ đi về đâu?. Với trải nghiệm cuộc sống ở
đời, cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đã viết trong ca khúc “ Một cõi đi về”:
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi.
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Dọi suốt trăm năm một cõi đi về.
Với những triết lý của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn,
chúng ta thấy cuộc đời này cứ loanh quanh, luẩn quẩn, rồi chẳng biết nơi đâu là
chốn quê nhà, đi mà chẳng biết đâu là đích điểm của cuộc đời. Thật là vô nghĩa.
Với giới hạn của thân phận con người thì chúng ta vẫn chưa có câu trả lời thỏa
đáng về sự sống mai sau sẽ như thế nào. Chúng ta sẽ đi về đâu? Chính vì lẽ đó,
trong trang Tin mừng hôm nay, câu hỏi của Chúa Giê-su sẽ là câu trả lời cho
chúng ta về những điều vô nghĩa đó, khi Chúa Giê-su hỏi: “Anh em bảo Thầy là ai? Thì thánh
Phê-rô đã trả lời: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Còn chúng ta thì sao? Chúa Giê-su cũng đang hỏi
chúng ta, Ngài cần câu trả lời của mỗi người chúng ta, và cho những ai đang còn
hoài nghi về Thiên Chúa, thì thánh Phê-rô và các tông đồ là chứng nhân sống
động về Thiên Chúa. Trong khi đó có kẻ bảo Thiên Chúa đã chết, và không có
Thiên Chúa hiện hữu trong thế giới này. Khi con người sống trong một thế giới
khoa học thực tiển và thực dụng, họ cho là Thiên Chúa vắng bóng. Hơn nữa, những
điều Chúa nói thì họ cho là đi ngược lại với những gì con người đang sống, và
hành động. Trong khi đó, Chúa Giê-su lại nói: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập
giá mình mà theo; ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống
mình vì Ta và vì Tin mừng thì sẽ được cứu sống”.
Rõ ràng, Chúa Giê-su nói ngược lại với những suy
nghĩ con người trong thời đại này, vì chẳng ai muốn thua thiệt và mất mạng sống
mình cả. Người đời bảo: “Thật thà thường thua thiệt, lắc léo lại lên lương”. Chẳng
ai muốn mình thua thiệt, chẳng ai chịu mình là người thua kém hơn người khác,
ngược lại, có kẻ còn tự cho mình là người có quyền trên người khác để lên án và
kết tội người khác, chà đạp lên nhau một cách bất công.
Thế thì, điều Chúa Giê-su công bố trong Tin mừng
hôm nay có còn giá trị và ảnh hưởng gì với đời sống của chúng ta hôm nay không?
Có lẽ, chúng ta cần nhìn lại bối cảnh của Tin mừng hôm nay. Khi Chúa Giê-su nói
với các tông đồ và dân chúng đi theo Ngài: “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà
theo Ta”. Trong lúc Chúa Giê-su sắp bước vào cuộc thương khó và thi
hành thánh ý của Thiên Chúa Cha, Ngài thực hiện công trình cứu độ của Thiên
Chúa qua cái chết trên thập giá đã được mạc khải trong Kinh Thánh. Có lẽ, các
tông đồ và dân chúng sẽ ngạc nhiên trước những lời lẽ bi thương, đau khổ và
chết chóc này, chẳng ai muốn nghe, nhưng đây lại một chân lý được mạc khải cho
nhân loại về sự phục sinh và ơn cứu độ và sự sống vĩnh cửu của con người.
Nếu nhạc cố sỹ Trịnh Công Sơn vẫn chưa tìm ra nơi
nào là chốn quê nhà, thì hôm nay Chúa Giê-su chỉ cho chúng ta con đường về quê
hương đích thực chính là nơi Ngài. “Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”. Chúa
Giê-su là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống cho chúng ta. Như lời thánh Phê-rô đã
tuyên xưng: “Thầy
là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ước gì, chúng ta cũng biết tuyên xưng như lời
thánh Phê-rô, để mỗi ngày chúng ta đi theo Chúa, chúng ta biết chọn cho mình
hướng đi và hướng sống với những điều xác tín trong niềm tin vào sự phục sinh
của Chúa Kitô, vì nơi Ngài là nguồn suối yêu thương và sự sống vĩnh cửu.
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là
nguồn hạnh phúc đích thực trong từng phút giây đời sống của chúng con. Xin cho
tay của chúng con biết mở rộng và tim của chúng con biết khát khao tình yêu
Thiên Chúa.
Lm. John Nguyễn, Utica ,
New York .
ĐỨC TIN SỐNG
PM.
Cao Huy Hoàng
Được gọi là
tín hữu Chúa Kitô hay Kitô hữu, ít là một lần chúng ta đã tuyên xưng “tôi tin”
vào Chúa Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, xuống thế làm người, chịu đóng đinh chịu
chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta, phục hồi cho chúng ta sự sống mới trong
Thiên Chúa”. Hầu hết chúng ta được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội từ nhỏ, vì thế,
Cha Mẹ, người đỡ đầu, có bổn phận hướng dẫn chúng ta thành toàn ơn Đức Tin đã
được lãnh nhận. Việc thành toàn ấy bao gồm việc học biết về Đấng mình đã Tin và
Sống theo ý muốn của Đấng mình đã tin. Thánh Gia-cô-bê nói: “Đức tin không có
việc làm là đức tin chết" (Gc 2, 17). Vậy, muốn cho ĐỨC TIN SỐNG,
Đức Tin phải có việc làm.
Lời Chúa hôm
nay giúp ta khám phá một vài việc làm của Đức Tin:
1. Tuyên xưng Đức Tin: .
Tuyên xưng Đức
Tin vào Chúa Giê-su không phải là công bố một công thức hay một kiến thức kinh
điển thần học, hoặc một số vốn liếng Giáo Lý. Những người có học thần học hay
có ít vốn liếng Giáo Lý cũng không nên xem thường đức tin bậc giáo dân thấp kém
hay những người mù chữ, ít học. Bởi đức tin là một ân huệ hơn là một khả năng
của lý trí. Và ơn huệ của đức tin được nhân lên mỗi phút giây cho những ai biết
rõ Đức Giê-su Ki-tô, Người mình tin, kết hiệp mật thiết với Người và sống theo
điều Người dạy. Một số giáo dân tưởng rất kém cỏi, nhưng thực ra, đức tin của
họ thật mãnh liệt. Họ Tuyên Xưng Đức Tin bằng đời sống anh dũng của họ trước
những làn tên mũi đạn của cuộc đời, của những cuộc bức bách có tổ chức, nhờ họ
có lòng mến thực thà, chân thành.
Trong khi các
tông đồ không nhận ra “người mình tin” là ai, thì Phê-rô, người đánh
cá tầm thường nhất, đại diện cho những con người ít học, đã biết “người mình tin”,
sống thiết thân với “người mình tin” và được ân huệ nhân lên do bởi
ánh sáng của Chúa Thánh Thần của lòng mến đã công bố: “Thầy
là Đức Ki-tô” (Mc 8, 29), hiểu là “Đấng
đã được Thiên Chúa Xức Dầu”, “Đấng Cứu Chuộc Thế Gian”
Việc làm cụ
thể của Đức Tin còn phải là từ bỏ mình, như Chúa Giê-su nói: "Ai muốn
theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta. Quả thật, ai muốn cứu
mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Tin
Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình". (Mc 8, 34-35). Từ bỏ
mình cũng đồng nghĩa với từ bỏ ma quỷ, từ bỏ con người cũ của ma quỷ, từ bỏ cái
tôi kiêu ngạo được ma quỷ nâng đỡ, khuyến khích, xúi giục, từ bỏ những thứ tham
sân si thuộc về cõi phù vân, cõi tạm mang tính-hay-chết hoặc không tồn tại trên
đời, cũng là từ bỏ tất cả những gì chúng ta không thể mang theo vào cuộc sống
mai sau.
Nhiều người đã
tập buông bỏ tất cả cho tâm hồn bình an thư thái, thân xác khỏe mạnh, nhưng
cách buông bỏ ấy chưa hẳn là cách buông bỏ theo ý muốn của Chúa Giê-su. Bởi
thế, Chúa đã thêm vào việc “từ bỏ mình” là “vác thập giá mình mà theo Chúa”.
Một đòi hỏi
thật tích cực của Đức Tin vào “Đấng Đã Chịu Đóng Đinh” là phải chịu đóng đinh
với Đấng mình đã tin. Như vậy, từ bỏ là biến đau khổ thành niềm vui, biến gian
nan thử thách thành con đường sống, biến sự chết thành sự sống lại ngay trong
bản tính hay chết của mỗi con người. Con mắt Đức Tin nhìn đau khổ và sự chết ở
đời này, chính là hạnh phúc và sự sống ở đời sau. Hãy cảm phục những lời tuyên
xưng đức tin cách sống động, những việc làm cụ thể của đức tin, nơi những Ki-tô
hữu đang đau khổ, bệnh tật, phong cùi, bị đàn áp, bị bức bách… Đừng nên xem
thường họ, nhưng hãy kiểm lại cách từ bỏ và vác Thập Giá của mình.
3. Làm việc bác ái:
Tuyên xưng Đức
tin vào Chúa Giê-su mà không mặc lấy trái tim nhân hậu của Ngài thì quả thật là
giả dối, là môi miệng. Bởi thế, Thánh Gia-cô-bê giải thích việc làm của Đức Tin
là việc Bác Ái: “Nếu
có anh chị em nào không cơm ăn áo mặc, mà có kẻ trong anh em lại bảo họ rằng:
"Chúc anh chị em đi bình an, và ăn no mặc ấm", mà anh em lại không
cho họ những gì cần dùng cho thân xác, thì nào có ích gì?” (Gc 2,
15-16)
Có những tín
hiệu đáng vui mừng nơi những Giáo Dân hôm nay đang khá trưởng thành về việc
thực hành Đức Bác Ái trong một xã hội vô cảm. Ý nghĩa “Bác Ái vì Chúa” của người Công
Giáo, của các nhóm Công Giáo vẫn luôn là kim chỉ nam để mọi người thể hiện việc
làm của Đức Tin hơn là việc làm cách giả hình, cách đạo đức mỵ dân của một xã
hội gian dối. Chúng ta được quyền tin tưởng nơi những ủy ban Caritas rằng sẽ
không thể có chuyện ăn chặn, bớt xén những phần giúp đỡ người nghèo, người bị
thiên tai bão lụt…cũng không có chuyện lạc địa chỉ vào túi ông kia vào nhà bà
nọ… bởi vì, tất cả đang trưởng thành về việc phải thực hiện đời sống Đức Tin
bằng một Đức Bác Ái chân thành, Đức Bác Ái Ki-tô Giáo.
4. Hiên ngang sống công chính:
Thánh vịnh Đáp
ca hôm nay cũng góp phần vào việc hướng dẫn một đức tin sống động: Hiên ngang
sống công chính giữa cuộc đời giả trá điêu ngoa. “Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong
miền đất của nhân sinh (Tv.114,9).
Hiên ngang
sống công chính vì đã tin vào Đấng Công Chính và có Ngài nâng đỡ, phù trợ, như
tiên tri Isaia khẳng định: “Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không hổ thẹn: nên tôi trơ
mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn. Đấng xét tôi vô tội ở gần
tôi, ai còn tranh tụng với tôi được? Chúng ta hầu toà, ai là kẻ thù địch của
tôi, hãy đến đây! Này đây Chúa là Thiên Chúa bênh đỡ tôi, ai dám kết tội tôi?”
( Is 50, 5- 9a)
Vâng, Từ bỏ
mình, vác thập giá mình, rồi “theo Chúa”. Theo Chúa là theo cách sống công
chính của Chúa. Sự công chính ấy lan tỏa ra cho thế gian bằng một đời sống
chứng nhân can đảm: “Tôi đã đưa lưng tôi cho kẻ đánh, đã đưa má cho kẻ giật
râu. Tôi đã không che mặt giấu mày, không tránh những lời nhạo cười và những
người phỉ nhổ tôi”. (x. Tv 114, 1-9).
Người Công
Giáo Việt Nam
hôm nay đang bị trong đấm vào lưng, ngoài vả vào mặt, trong giật râu, ngoài
nhạo cười phỉ báng. Các Ki-tô hữu
Việt Nam, thuộc mọi thành phần, phẩm trật đang bị hành hình đủ kiểu, mà kiểu
nào cũng đòi hỏi một sự kiên cường làm chứng cho Đức Tin Công Giáo và hiên
ngang sống công chính giữa mọi thế lực trong ngoài đều có thể là gian tà. Trước
tình hình nhiễu nhương hư thực, chẳng biết đâu là gian đâu là thật, Người công
Giáo Việt Nam chỉ còn có thể Tin vào Chúa Giê-su Ki-tô đích thực là Đường, là
Sự Thật, và là Sự Sống mà nhắm thẳng đích đến trong cuộc sống chứng nhân.
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa Giê-su Ki-tô,
là Đấng Cứu Chuộc chúng con. Xin cho Đức tin của chúng con được sống và lớn lên
nhờ việc từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa, sống bác ái với
mọi người và anh dũng làm chứng nhân cho Chúa giữa đời. A men.
PM. Cao Huy Hoàng, 14-9-2012
THÍ MẠNG CÙI
AM
Trần Bình An
ĐGM Louis
Désiré Maigret là Vị Đai Diện Tông Tòa (Vicar Apostolic) tại Hawaii, nhận thấy
nhu cầu cần một vị chủ chăn thường trú tại Trại Cư Trú dành cho người phong,
nhưng Ngài ngại ngùng không dám “nhân danh Đức Vâng Lời” để chỉ định, và bắt
buộc một Linh Mục nào, chấp nhận “án tử hình”. Ngài muốn các vị chủ chăn tình
nguyện cho việc tông đồ cao cả này.
Sau khi cầu
nguyện tại Nhà Thờ Thánh Antôn, tại Đảo Maui, thì có bốn Linh Mục sẵn sàng tình
nguyện thay phiên nhau lần lượt đi giúp Trại Phong Hủi. Cha Damien tình nguyện
đi xung phong, ngày10 tháng 5/ 1873.
Ngài còn tình nguyện ở lại luôn tại Trại để chăm sóc 816 bệnh nhân cà
hồn và xác, không phân biệt tín ngưỡng. Năm đó, Cha Damien, mới 33 tuổi, và
ngài được tiếng là “khoẻ như voi.”
Vào năm 1875,
tự tay Ngài đã xây cất được sáu nhà Nguyện nhỏ, chăm nom y tế cho các bệnh
nhân. Ngài đi từng nhà băng bó, phát thuốc và dạy cách giữ vệ sinh.. Tự tay
đóng được 2000 quan tài, và tự mình chôn cất bệnh nhân trong “Vườn Kẻ Chết.” Ngài từ chối tước hiệu do chính
quyền Hawaii
ban tặng và tiền lương 10.000.USD, vì cho rằng “can thiệp” vào việc Tông Đồ của
ngài. Nhưng ngài vui lòng nhận những vật liệu do chính quyền cung cấp để xây
một nhà riêng dành cho nam thanh niên và một cư xá cho nữ.
Vào năm 1876,
Cha Damien, đã nhận thấy những vết khô trên da thịt, cảm thấy sốt nóng nơi
chân, và mất hẳn cảm giác, khi đổ nước sôi trên chân trái, Ngài đã sống nhiều
năm, tự chứng kiến cái chết đến với các bệnh nhân. Ngài không sợ chết đến, cũng
không ngần ngại chấp nhận cái chết.
Ngày Chúa Nhật
đầu tháng 6, năm 1885, Cha Damien dâng Thánh Lễ tạiNhà Thờ Thánh Philomena do
chính ngài đã xây cất. Sau khi đọc bài Phúc Âm, ngài quay về các bệnh nhân, và
không nói những lời chào thưa như mọi khi: “Anh Chị Em thân mến,” nhưng ngài tuyên bố một
câu làm rung động khắp Nhà Thờ và chấn động cả thế giới: “Chúng Ta, những Bệnh Nhân Phong Hủi”
(WE LEPERS)
Và ngày 15
tháng tư, năm 1889, lúc 8 giờ sáng, ngài
tắt hơi thở cuối cùng, thọ 49 tuổi, nét mặt vẫn tươi vui “như em bé đi ngủ” (*). Ngày 11
tháng 10, 2009, Đức Giáo Hoàng Bêneditô XVI, tại Đại Thánh Đường Thánh Phêrô,
Roma, đã Phong Thánh cho Cha DAMIEN và bốn Vị Thánh khác.
Như vậy, Thánh
Damien đã toàn tâm toàn ý theo chân Chúa, hoàn toàn tuân thù và vâng phục Lời
Chúa: “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mc 8,
35)
Trình thuật
Tin Mừng hôm nay tiết lộ về thân phận Chúa Giêsu, cùng điều kiện theo Người.
Tuy chỉ vỏn vẹn 9 câu, nhưng có đến 3 thái độ của Chúa đối với Tông đồ Phêrô,
các môn đệ và dân chúng. Chúa đã tỏ ra vui mừng, tức giận và ôn tồn khoan dung.
1. Chúa khen
Chúa Giêsu lại
hỏi các ông: “Còn
anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô mau mắn trả lời: “Thầy là Đấng
Kitô.” (Mc 8, 29) Chúa liền vui mừng khen ngợi: “Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là
người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha
của Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 16, 17) Liền theo lời khen, Chúa
giải thích vì sao Tông đồ Phêrô lại nói rất đúng về Người. Đó chính là nhờ Đức
Chúa Cha mặc khải riêng cho Phêrô điều huyền nhiệm đó.
2. Chúa rầy
la
Nhân vì điều
mặc khải ấy, Chúa Giêsu thân mật loan báo cuộc khổ nạn sắp đến của Người, để
các Tông đồ cùng hiệp thông chia sẻ. Nào dè, Tông đồ Phêrô quá sức nhiệt tình
thương mến Thầy, liền kín đáo kéo Thầy ra can ngăn, phiền trách Người: “Xin Thiên Chúa
thương, đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy.” (Mt 16, 22) Chúa Giêsu
quay lại, nhìn thấy các môn đệ đang dõi mắt trông theo, liền công khai la mắng
Phêrô: “Vade retro Satana! Satan xéo ngay đi!”
Lời can ngăn
chí tình thầy trò mà bị mắng nhiếc quá nặng lời. Bởi vì Chúa đồng hóa lời can
ngăn đó, như lời cám dỗ của Satan trước đây trong hoang mạc, hòng phá hỏng công
trình cứu thế. Do vậy, Chúa mới giận dữ, xung thiên nộ khí. Vô tình, ý ngay
lành của Tông đồ Phêrô lại trùng khớp với ý đồ của Satan. Với cái nhìn thiển
cận, với cái tâm hạn hẹp, loài người làm sao hiểu thấu nổi Thánh Ý cao cả.
3. Chúa dạy
Chúa vẫn biết
tấm lòng thành của Tông đồ Phêrô, vẫn luôn yêu mến Thầy. Chẳng qua, Phêrô vẫn
chưa hiểu thấu đáo sứ vụ của Người. Hơn nữa, theo tính xác thịt tự nhiên, thì
ai mà chẳng ham sống, sợ chết. Nhất là cái chết ấy còn liên lụy đến bản thân
mình, đến các môn đệ.
Chính vì thế,
Chúa Giêsu mới ôn tồn giảng dạy cho các môn đệ và muôn dân về điều kiện theo
Chúa. “Ai muốn
theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin
Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34 – 35) Các Thánh Tông
đồ sau này đều liều mạng sống vì Chúa để làm chứng nhân Tình Yêu.
Gần đây, Thánh
Damien cũng thế, sẵn sàng đánh đổi cuộc đời vì Chúa và Tin Mừng. Ngài đã thí
mạng cùi phục vụ tha nhân, không chút ngần ngại e dè. Mạng sống con người tuy
cao quý, vì do Chúa tạo dựng, nhưng nếu phục vụ cho mục đích cao cả vì Chúa,
thì trở nên phương tiện tốt lành để đổi lấy đời sau vinh phúc. Bằng không, chỉ
lo phụng dưỡng tôn thờ cái bụng như Thánh Phaolô đã nói, thì cái thân xác rồi
cũng dần hao mòn, chết đi và mục nát theo dòng thời gian, nào khác bị phung cùi
hủy hoại.
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết từ bỏ ý riêng, từ bỏ đam mê, từ bỏ tội lỗi, để sống theo
Thánh Ý, theo Tin Mừng, để con khỏi bị Chúa khước từ, xua đuổi.
Lạy Mẹ Maria, xin
Mẹ luôn mãi đồng hành với con trên nẻo Đường Hy Vọng, để con cùng Mẹ, với Mẹ và
nhờ Mẹ, vác thập giá theo chân Chúa trọn đời. Amen.
(*) Lm Đường Thi
http://xuanbichvietnam.wordpress.com/2010/01/03/nam-linh-muc-
guong-hy-sinh/
AM Trần
Bình An
VIỆC CỦA LOÀI NGƯỜI – VIỆC CỦA THIÊN CHÚA
Pio X
Lê Hồng Bảo
Thật tội
nghiệp cho Phêrô, chỉ vì thương Thầy, không muốn Thầy phải chịu đau
khổ mà lại… bị mắng! Nặng nề hơn, lại bị coi là Satan “không biết việc
Thiên Chúa, mà chỉ biết việc loài người”. Thế nào là việc Thiên
Chúa, thế nào là việc loài người? Chính tôi cũng còn mơ hồ… Còn
nhớ có lần được chứng kiến một vị Cha sở ra công xây dựng nhà thờ,
tôi rất lấy làm kính ngưỡng. Dạo đó, việc xây dựng nhà thờ đâu phải
dễ dàng gì! Mức sống người dân còn thấp. Cha phải đi chạy chọt xin
chỗ này chỗ nọ… Rồi Cha kêu gọi “thắt lưng buộc bụng”… Mọi khoản đóng
góp có được đều dành cho việc xây dựng nhà thờ. Không có phần
thưởng giáo lý, không còn bồi dưỡng lễ sinh hay ca đoàn, không cờ
quạt, không rước xách… Thậm chí Cha còn kêu gọi “quy ra thóc” những quà mừng
Bổn mạng hay kỷ niệm Linh Mục của Cha để Cha mua… xi măng. Tôi thầm
phục quyết tâm cao của Cha và thường gọi đó là “lòng nhiệt thành nhà Chúa”.
Cũng vì tấm lòng “nhiệt thành nhà Chúa” ấy mà trong quá
trình xây dựng, không ít người… lặng lẽ rút lui! Rồi cũng đến ngày
công trình hoàn thành, Đức Cha về dâng lễ khánh thành đặt tấm đá ghi
tên Cha trang trọng ngay trước tiền đường. Hàng ngày, Cha đi ra đi vô
đọc kinh nhật tụng đều dừng chân trước tấm đá ấy. Nhưng nhà thờ thì
chỉ còn có mấy ông bà cụ nghễnh ngãng là năng lui tới. Lớp giáo lý
thưa thớt, hội đoàn rời rạc, thanh niên vắng bóng, Thiếu nhi Thánh
thể chẳng còn, lễ sinh chỉ giúp lễ Chúa Nhật. Các ông bà “cựu hội đồng
giáo xứ” ngồi lại hay nhắc về thời hoàng kim khi còn ngôi
nhà thờ xập xệ cũ với nhiều tiếc nuối…
Thì ra, coi
vậy mà không phải vậy! Tôi cũng từng nghe một Cha giảng trong tuần
tĩnh tâm dành cho các bậc cha mẹ: “Satan tinh quái lắm! Nó không cám dỗ bằng cách rủ
rê đi karaoke hay vũ trường đâu. Nếu chỉ như thế, nó không phải là
Satan. Nó khôn khéo dụ khị chúng ta đi đọc kinh, tham gia hội đoàn, tổ
chức lễ lạc… Rồi từ từ nó thổi phồng cái “tôi” của mỗi chúng ta
lên, gieo vào đầu ta ý nghĩ không có ta thì mọi chuyện không suôn sẻ,
xúi ta bỏ bê việc nhà để lo việc thiên hạ… Cuối cùng, ta chỉ lo chăm
chắm làm cho sáng danh ta chứ không phải sáng Danh Chúa.”
Tôi sống
giữa một xóm đạo khá nề nếp, bên phải là nhà bà Hội trưởng Các
Bà Mẹ Công Giáo, bên trái là nhà ông phó chủ tịch Hội đồng Mục vụ
giáo xứ. Tuy nhiên, chén bát trong chạn còn va nhau huống hồ…
Một hôm tôi nghe có tiếng nói
lớn phát ra từ nhà bên phải:
-
Bà có đi cũng vừa vừa phải phải… Bà có biết
cha con tôi 3 hôm nay phải ăn mì tôm không?
-
Ơ hay, cái ông này, sắp tới Bổn Mạng giáo xứ,
các bà mẹ phải tập trung tập mấy cái hoạt cảnh cho đêm diễn nguyện
chứ có phải thường xuyên vậy đâu!
-
Ừ, thì không thường xuyên. Vậy mà, tuần trước
có người bạn đến chơi, tôi lấy bình trà ra chế để mời khách thì
thấy bình vẫn còn xác trà mấy ngày lên mốc, rồi mấy cái tách cũng
đóng bợn trà vàng ố. Thậm chí, bàn ghế bụi bặm trông mà xấu hổ
với khách…
-
Thế ông cưới tôi về để phục dịch ông đấy hả?
May là tôi chỉ đi công tác nhà thờ chứ ông gặp trúng con mẹ đỏng
đảnh nó cũng đi suốt ngày mà lại tốn thêm tiền son phấn giày dép
cho nó nữa đấy!
-
Thì… công tác gì bà cũng phải dành thời gian
cho gia đình với chứ!
-
Ông không nhớ hôm lễ Bổn Mạng các gia trưởng, Cha
xứ nói gì à? Ngài nói: “Một người phục vụ thì những người khác
trong gia đình phải hy sinh”. Ông xem, ông có làm được chút gì cho giáo
xứ không? Ngay cả đọc sách Thánh cũng không tới phần ông. Vậy thì,
phải hy sinh một chút chớ. Ăn mì tôm có 3 bữa đã than thì làm sao
vác Thánh giá mỗi ngày???
Đến đoạn trích dẫn Lời
Chúa, lời Cha này thì ông chồng đành làm thinh…
Một hôm khác tôi lại nghe từ
nhà bên trái:
-
Chiều nay, ông bớt chút thì giờ đi họp phụ huynh
cho thằng Út cái. Nó bỏ học cả tuần nay đi chơi game, nhà trường mới
gửi giấy mời kìa.
-
Trời đất, bà ở nhà làm gì mà nó bỏ học đi
chơi game cả tuần nay không biết? Đúng là, “con hư tại mẹ”.
-
Ông có thấy cả trăm thứ việc “không tên” đang chờ
tôi đây không. Còn ông, cứ rảnh một chút là nhà thờ, họp hành xong
lại… lai rai chút đỉnh. “Một tiếng cha ngăm hơn trăm lời mẹ dặn”, mà
ông thì có phút nào quan tâm tới nó đâu?
-
Bà có thấy nhà thờ mình đang sơn lại không? Tôi
mà hở ra một cái là tụi nó làm bầy hầy ngay, lại tốn thêm công thêm
của. Rồi cũng phải “giao lưu” với tụi thợ một chút để nó làm đàng
hoàng cho mình. Bà coi, trong giáo xứ này có ai đảm đương được những
việc ấy?
-
Tôi thấy thà như anh B. bên kia, chẳng vai vế gì
mà dạy dỗ con cái đàng hoàng…
-
Bà khéo so sánh quá há? Chúa ban cho ông B. có
một nén thì ổng an phận chừng đó, còn Chúa ban cho tôi 5 nén mà bà
không cho tôi làm lời ra, mai mốt ra trước tòa phán xét bà phải trả
lẽ à!...
Nghe đến đó,
chị vợ nín khe!
Qua Lời Chúa
hôm nay, tôi đã lờ mờ hiểu ra rằng: Nếu chỉ hệ tại ở những kết quả
tốt đẹp, hào nhoáng bên ngoài thì “việc của Thiên Chúa” chẳng khác gì “việc của loài
người”. Việc của Chúa đòi tôi phải từ bỏ bản thân như lời
tiên tri Isaia: “Tôi
đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu. Tôi đã không che mặt
giấu mày, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi.”
(Is. 50, 5-6) Việc của Chúa đòi tôi phải từ bỏ mạng sống: “Quả thật, ai
muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì
Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống mình” (Mc. 8, 35) Việc của
Chúa đòi tôi phải thực hiện bằng Đức Tin chứ không phải bằng hư danh:
“Nếu ai nói
mình có Đức Tin, mà không hành động theo Đức Tin, thì nào có ích gì? Đức Tin
như thế có thể cứu được nó ư?” (Gc. 2, 14).
Việc của Chúa không nguy nga, hùng vĩ như
tôi hằng tưởng tượng:
-
Việc của Chúa là lặng lẽ quét dọn vệ sinh như
thánh Martino Porres đảm trách.
-
Việc của Chúa là âm thầm phục vụ người cùi như
Cố Giám Mục Jean Cassaigne đảm nhận.
-
Việc của Chúa là vẽ nên đường Hy Vọng bằng
từng chấm hy vọng như Đức Cố Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận đã sống và
diễn tả.
Cứ làm mọi việc bằng Đức
Tin và lòng yêu mến, còn muốn biết kết quả thì hãy lắng nghe Mẹ
Têrêxa Calcutta:
-
Kết Quả của Thinh Lặng là CẦU NGUYỆN.
-
Kết Quả của Cầu Nguyện là ÐỨC TIN.
-
Kết Quả của Ðức Tin là TÌNH YÊU.
-
Kết Quả của Tình Yêu là PHỤC VỤ.
-
Kết Quả của Phục Vụ là BÌNH AN.
Lạy Chúa
Giêsu, xin ban thêm Đức Tin cho chúng con, để chúng con có thể phân biệt
đâu là việc của Thiên Chúa và đâu là việc của loài người. Nhờ đó,
chúng con biết dành trọn tâm lực cho những việc đem lại cho chúng con
sự sống đời đời cho dù phải chịu nhiều thiệt thòi, chê bai, ruồng
bỏ… Amen.
Pio X
Lê Hồng Bảo
SUY NIỆM LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ
LÀM SAO SUY TÔN THÁNH GIÁ
TRỞ THÀNH HỮU HIỆU?
Lm
Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Người Công
Giáo tôn thờ Thánh Giá, điều đó mọi người đều biết. Thập tự là biểu hiệu (logo)
của Thiên Chúa giáo, cũng như chữ Phạn của Phật giáo, trăng lưỡi liềm của Hồi
giáo, hay búa liềm của Cộng Sản. Những biểu tượng này được những người theo tôn
giáo hay học thuyết đó quí trọng và đề cao, điều đó cũng là lẽ thường tình. Thế
nhưng người Công Giáo suy tôn Thánh Giá, tôn thờ Thánh Giá, chắc hẳn không chỉ
đơn thuần là tôn thờ một biểu tượng, càng không phải tôn thờ đau khổ và chết
chóc, cũng chẳng phải tôn thờ một báu vật gợi nhớ một kỷ niệm xa xưa. Thập giá,
mà họ thành kính gọi là Thánh Giá, là tất cả đối với họ, nói lên trọn vẹn niềm
tin của họ và là niềm hy vọng duy nhất họ có. Tại sao vậy?
Suy tôn Thánh Giá: Ki-tô hữu suy
tôn mạc khải vĩ đại nhất mà Thiên Chúa có thể vén lên cho trần gian. Đúng là
toàn bộ cuộc sống của đức Giê-su nơi dương thế là để nói lên có một điều mà
nhân loại chưa từng được nghe biết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một…”
Nhưng thập giá còn nói lên điều sâu xa hơn nhiều: Thiên Chúa yêu tới độ đã chết
cho nhân loại tội lỗi. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người
đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13). “Họa may có ai
dám chết vì một người lương thiện chăng… Thế mà Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta,
ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu
thương chúng ta” (Rm 5,7-8). Suy tôn Thánh Giá là suy tôn một tình
yêu vĩ đại. Người Do Thái lẽ ra đã phải ghi nhớ đến muôn đời hình ảnh con rắn
đồng treo trên cây gậy, nói lên tình yêu trung thành của Gia-vê đối với dân
riêng, ngay cả khi họ bất trung và phản nghịch (không may là điều này đã bị họ
lãng quên không biết từ đời nào rồi), thì người Công Giáo sẽ không ngừng đề cao
Thánh Giá là vì vậy.
Suy tôn Thánh
Giá: Ki-tô hữu suy tôn ơn cứu độ và niềm hy vọng của mình. Nơi Thánh Giá, họ
hiểu ơn cứu độ được Thiên Chúa ban nhưng không cho con người, chứ không do bất
kỳ công nghiệp nào của họ. Người suy tôn Thánh Giá đầu tiên và trọn vẹn nhất là
thân mẫu Ma-ri-a đứng chết lặng dưới chân thập giá, người thứ hai (theo truyền
thuyết lâu đời của Giáo Hội) chính là Ma-ri-a Mác-da-la ôm lấy chân thập giá…
Sau đó là các môn đệ Gio-an và Phê-rô v.v…; mỗi người một kiểu, họ đều biểu
dương thập giá như nguồn ơn cứu độ và niềm hy vọng duy nhất của mình. Họ suy
tôn Thánh Giá trong cảm nhận con người thấp hèn và tội lỗi, và chính thập giá
lúc đó làm cho niềm hy vọng của họ bừng sáng lên.
Suy tôn Thánh
Giá: Ki-tô hữu suy tôn một nếp sống hoàn toàn mới: “yêu thương nhau… yêu thương tới cả kẻ thù”
(Lc 6, 27-35) “yêu thương như Thầy đã yêu thương” (Ga 13,3-35).
Họ biết rằng Thập giá là con đường hoàn thiện, không phải vì thập giá làm cho
họ nên tốt hơn, giảm bớt phạm tội, cho bằng vì càng vào sâu trong thập giá -
hay càng suy tôn thập giá với cả tâm hồn - cõi lòng họ càng dễ biến thành nhân
hậu giống Thiên Chúa. “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân
từ”. Qua suy tôn Thánh Giá, họ đi sâu vào một Thiên Chúa tha thứ, để
càng dễ tha thứ; đề cao một Thiên Chúa không lên án, để họ càng không lên án
những người anh em lỗi phạm; tôn vinh một Thiên Chúa không xét đoán, để họ càng
không dám xét đoán những người anh em sống quanh mình (Lc 6,36-37). Đúng là
không suy tôn Thánh Giá tôi không thể đạt tới sự thánh thiện đó như đức Giê-su
mong muốn.
Giáo Hội luôn
coi việc suy tôn Thánh Giá – cử hành Thánh Thể là trung tâm điểm của đời Ki-tô
hữu; và điều đó thật là chí lý. Chỉ có nguy cơ là tôi luôn có khuynh hướng hạ
thấp việc suy tôn đó xuống tầm một việc đạo đức mà thôi. Suy tôn Thánh Giá là một
tuyên xưng niềm tin-cậy-mến thâm sâu nhất, và cần được biểu lộ, hữu hình dưới
hinh thức bí tích của cử hành Thánh Thể, rồi sau đó bằng chính đời sống hiện
sinh của tôi trong cuộc sống thường nhật. Tôi có thâm tín điều đó không?
Lạy Chúa Ki-tô
thập giá! Xin giúp con biết suy tôn Thánh Giá Chúa bằng cả cuộc sống mình. Con
muốn suy tôn Thánh Giá như Mẹ Ma-ri-a hay thánh Gio-an, nhưng cũng có nhiều khi
con lại dễ suy tôn hơn như Mác-đa-la hay Phê-rô. Dầu với biểu hiện nào đi nữa,
xin cho đời con không ngừng được việc suy tôn này biến đổi từng ngày, trong
việc nhận biết mạc khải tình yêu, trong niềm hy vọng đón nhận ơn cứu độ, và
trong nếp sống hiền hòa với hết mọi người. Amen
Lm
Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Trên đồi Golgotha cách đây hơn hai ngàn năm, có 3 tử tội trên thập
giá. Ba con người đều chết trên thập giá với ba thái độ khác nhau. Đó chính là
Thầy Giê-su ở giữa. Một người bên hữu được gọi là trộm lành. Một người bên tả
truyền thống vẫn gọi là trộm dữ. Tại sao cùng một hoàn cảnh mà cách thức đón
nhận lại khác nhau? Đâu là điểm khác biệt giữa ba con người?
Trước hết đó
là Thầy Giê-su, một con người đã tự nguyện vác thập giá để cứu độ chúng sinh.
Ngài chấp nhận đi vào cái chết không phải do tội của mình mà vì tội của nhân
gian. Ngài đã chết để thí mạng vì bạn hữu. Cả cuộc đời của Ngài đã sống vì
người khác. Ngài đã sống một cuộc đời để yêu thương và yêu thương cho đến cùng.
Ngài đã đi đến tận cùng của yêu thương là thí mạng mình vì bạn hữu. Cái chết
của Ngài là bằng chứng cho tình yêu. Đau khổ Ngài chịu cũng vì yêu thương nên
Ngài không than vãn, không uất hận vì đời đen bạc. Không nguyền rủa cuộc đời vì
những gánh nặng đang đè trên vai. Vì yêu đối với ngài không chỉ là tam tứ núi
cũng trèo, thất bát sông cũng lội, mà còn dám chết cho người mình yêu được sống
và sống dồi dào. Thế nên, đau khổ đối với Ngài là niềm vui. Và ngài đã đi vào
cái chết trong thanh thản vì đã hoàn thành sứ mạng đời mình: “yêu thương và phục vụ” cho
người mình yêu. Ngài không hối tiếc về cuộc sống đã qua. Ngài không hối hận vì
việc mình đã làm. Ngài rất vui vì đã đi trọn con đường của tình yêu. Ngài đã
trút hơi thở cuối cùng trong an bình khi Ngài nói cùng nhân loại “mọi sự đã hoàn
tất” và nói cùng Chúa Cha “Lạy Cha, con xin phó thác linh hồn trong tay Cha”.
Người thứ hai
là anh trộm lành. Anh là một tội
nhân. Anh đón nhận hình phạt và cái chết vì chính tội của mình. Nhưng anh là
một con người biết phải trái. Anh biết việc mình làm là đáng tội, là đáng phải
chịu hình phạt. Cuộc đời anh chưa làm điều gì tốt cho tha nhân. Anh đã sống một
cuộc đời chỉ làm hại người khác. Thế nên, anh đã nói với Chúa: “Tôi đã bị như
thế này là xứng đáng với tội của tôi”. Anh đón nhận thập giá để đền
bù những lầm lỗi đã qua. Anh chấp nhận cái chết nhục nhã như là hình phạt đích
đáng vì tội của mình. Anh đã tìm được bình an trong giờ phút cuối cùng của đời
người. Anh cũng biết rằng anh không xứng đáng chung phần hạnh phúc thiên đàng
với Thầy Giê-su, anh chỉ mơ ước Thầy Giê-su nhớ tới anh khi Thầy về thiên đàng.
Đối với anh thập giá là cơ hội để anh để anh đền bù lầm lỗi. Thập giá là nhịp
cầu đưa anh vào thiên đàng. Thế nên, anh đón nhận thập giá với lời xin vâng
theo mệnh trời. Anh không oán trời, oán đất. Anh đi vào cái chết với tâm hồn
thanh thản vì anh đã đền bù những lầm lỗi của quá khứ cuộc đời.
Người thứ ba là anh trộm dữ. Anh lao vào cuộc đời
như con thú đang tìm mồi. Cuộc đời anh chỉ tìm hưởng thụ cho bản thân. Vì ham
muốn danh lợi thú anh đã sẵn sàng hạ thấp nhân phẩm mình và chà đạp phẩm giá
của tha nhân. Anh đang có nhiều toan tính để hưởng thụ. Thế nên, anh không chấp
nhận thập giá đến với anh. Anh không chấp nhận kết thúc cuộc đời bằng cái chết
bi thảm trên thập giá. Anh đòi quyền sống. Sống để hưởng thụ. Anh nổi loạn vì
đời anh còn quá trẻ, còn quá nhiều tham vọng nên anh không thể chấp nhận cái
chết đến với mình. Thế nhưng, anh vẫn phải chịu hình phạt vì tội của mình. Công
lý đòi buộc anh phải thi hành, dầu anh không muốn. Thập giá làm cho anh đau
khổ. Cái chết làm cho anh nổi loạn. Anh
nguyền rủa trời, nguyền rủa đất và xúc phạm cả đến Thầy Giê-su, một con người
đang phải chịu cái chết vì đã liên đới với anh. Anh đã chết trong sự hoảng loạn
và khổ đau.
Mỗi người chúng ta đang sống một cuộc đời cho
chính mình. Mỗi người chúng ta đang đón nhận thập giá với thái độ khác nhau. Có
người chấp nhận thập giá để đền tội. Có người chấp nhận thập giá vì lòng yêu
mến tha nhân. Và cũng có người đang từ chối thập gía trong cuộc đời. Hạnh phúc
hay đau khổ tuỳ thuộc vào việc chọn lựa sống của chúng ta. Nhưng dù con người
có muốn hay không? Thập giá vẫn hiện diện. Thập giá của bổn phận. Thập giá của
hy sinh từ bỏ những tham lam bất chính, những ham muốn tội lỗi, những ích kỷ
tầm thường. Đón nhận thập giá sẽ mang lại cho ta tâm hồn bình an vì đã sống
đúng với bổn phận làm người. Đón nhận thập giá còn là cơ hội để ta đền bù những
thiếu sót trong cuộc sống của mình và của tha nhân. Đón nhận thập giá còn là cơ
hội để ta tiến tới vinh quang phục sinh với Chúa trên thiên đàng.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã vui lòng đón nhận thập
giá vì chúng ta, nâng đỡ và giúp chúng ta vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa.
Xin giúp chúng ta biết sống một cuộc đời hy sinh cao thượng để chúng ta không
hối hận vì quá khứ, nhưng luôn bình an vì đã sống chu toàn bổn phận của mình
với lòng mến Chúa, yêu người. Amen
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
BIẾT
ƠN ĐẤNG CỨU CHUỘC
PM.
Cao Huy Hoàng
Vì tội nguyên tổ, con người
bị án phạt là phải chết muôn đời. Nhưng con người được Cứu Chuộc nhờ Tình Yêu
của Thiên Chúa.
Chúa Giê-su nói: “Quả thật, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến
nỗi đã ban Con Một Người, để tất cả những ai tin vào Con của Người, thì không
phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Người
giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Người mà được
cứu độ”. (x. Ga 3, 13-17)
Thánh Giá, sự chết và sự
phục sinh của Chúa Giêsu, là cách mà Thiên Chúa yêu thương và Cứu Chuộc loài
người. Không có cách nào khác.
Chúa Giêsu, thân phận là
Thiên Chúa, nhưng phải làm “thân phận tôi đòi” của một người phàm, và hơn
thế nữa, một người phàm sinh ra tầm thường nhất, nhận một án tử hình nhục nhã
nhất trong nhân loại: chết trên thập giá… “Chúa Ki-tô, vì
chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. (x. Pl 2, 6-11)
Đó là cách cứu chuộc. Không có cách nào khác!
Và nếu chỉ có cách ấy mà
không có cách nào nhẹ nhàng hơn, thì phía người được cứu, được chuộc hẳn phải
ngộ ra rằng tội lỗi của mình nặng nề là chừng nào. Vì rõ ràng là, cái giá để
được chuộc lại không phải là một đôi năm đọa đày nô lệ, mà là một kiếp người,
cái giá cứu chuộc càng không phải là một vài tấn vàng, nhưng là một sinh mạng,
không phải là sinh mạng của con người kiếp bụi phong trần mà là sinh mạng Con
Thiên Chúa Làm Người.
Ai đã hy sinh mạng sống mà
cứu cho bạn được sống, hẳn bạn phải tri ân họ biết chừng nào. Ai đã cứu bạn, vợ
chồng con cái bạn khỏi chết ngạt, khỏi chết nước, khỏi chết cháy, khỏi cảnh
nghèo khổ, nợ nần, khỏi cảnh làm thuê đày đọa, khỏi bị cảnh buôn bán người sang
Trung Quốc, Hàn Quốc, khỏi cảnh tù đày, nô lệ, vong thân… hẳn là phải biết ơn
và đền ơn họ đến muôn đời. Có người họa hình, tạc tượng người cứu sống mình và đặt
ở nơi xứng đáng mà ghi ơn, nhớ tưởng như một vị đại ân nhân, vị đại thánh. Cũng
đã có người nguyện làm kiếp tôi tớ phục vụ hầu hạ người thi ân suốt đời để đền
ơn.
Vẫn còn lòng biết ơn nơi mỗi
con người chúng ta đấy chứ! Nhưng cũng còn có cả những lòng biết ơn thật chua
chát: Chúng ta vẫn thấy những nhang hương đèn khói, những cái sấp mình cúi lạy
trước những bia tưởng niệm các anh hùng chiến sĩ đã bỏ mình vì tổ quốc. Chẳng
biết cái sấp nào giả hình, cái cúi nào thật tình và cũng không biết đó có phải
là cách tỏ bày lòng biết ơn đích thực không. Bởi vì, cũng có người biết ơn vì
‘nhờ những những người nằm trong bia mộ kia mà nay tôi được làm ông kia bà nọ,
lương tuy ít, nhưng bỗng nhiều, không tham lam không nhũng nhiễu nhưng tự nhiên
mà thiên hạ cứ đút vào túi họ bạc tỷ!’. Hoặc phải biết ơn vì ‘nhờ các ông mà
nay tôi có cái để xài, có cả cái để dành và nhất là có cái để bán cho có thêm
tiền thêm vàng gửi ngân hàng nước ngoài nước trong!’ Ôi! chuyện thế gian! Thật
là tồi tệ! Người ta đang biết ơn những người hy sinh xương máu, mạng sống để
cho họ được cái lợi, cái lộc ở đời này hơn là biết ơn những người hy sinh chiến
đấu cho một nền hòa bình công chính! Ai đã nằm xuống cho lý tưởng hòa bình công
chính sẽ không được ca tụng bằng người nằm xuống để họ có cơ hội giàu có và
thao túng quyền lực! Họ chẳng cần biết chung cuộc đời họ sẽ ra sao!
Cũng bởi vì nghĩ đến cái lợi
trước mắt ở trần gian mà trong chúng ta cũng có người không khác người duy vật
kia bao nhiêu: không bao giờ biết ơn Đấng đã cứu chuộc chúng ta ra khỏi những
điều tội lỗi, ra khỏi sự chết trầm luân muôn đời, dẫn đưa chúng ta đến đời sống
công chính hôm nay trên trần gian, và đời sống vĩnh cửu mai sau trên thiên
quốc.
Lễ Suy tôn
Thánh Giá nhắc nhớ chúng ta suy tôn và biết ơn Tình Yêu của Thiên Chúa: Tình
Yêu Cứu Chuộc. “Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa Kitô, chúng
con thờ lạy Chúa; chúng con chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dùng cây Thập giá mà cứu
chuộc thế gian”.
Quả thực, nếu
không có Thánh Giá Chúa Giê-su Ki-tô, không có ơn cứu chuộc, thì cả và nhân
loại này sẽ mãi mãi trầm luân trong cuộc sống giả trá điêu ngoa, bất công và
hủy diệt muôn đời. Cũng vậy, ai không tin và biết ơn, đền ơn Chúa cứu chuộc
cũng sẽ nhận một án phạt bị hủy diệt muôn đời. Còn số phận của những người chà
đạp Thánh Giá Chúa, hẳn nhiên thật là bi đát, họ sẽ chết muôn đời với lũ Satan,
con rắn độc cắn người, con rắn bại trận!
Ước gì những người đã xem
thường Thánh Giá Chúa, xúc phạm đến Thánh Giá Chúa ngộ ra tội lỗi mình mà đến
cùng Hội Thánh như dân xưa đã đến cùng Môi-sê và thưa rằng: “Chúng
tôi đã phạm tội, vì chúng tôi nói những lời phản nghịch Chúa và phản nghịch
ông. Xin ông cầu nguyện để Chúa cho chúng tôi khỏi rắn cắn”. (x. Ds 21, 4-9).
Lạy Chúa Giê-su, chúng con là những người bị án tử hình,
mà Chúa đã vì yêu thương đến nhận thay án tử hình ấy cho chúng con bằng cái
chết nhục nhã trên Thánh Giá để chúng con được sống. Xin cho chúng con biết tin
tưởng, mến yêu Thánh Giá Chúa, biết ơn Tình Yêu Chúa và đền đáp ơn ấy bằng cách
nguyện suốt đời phục vụ Chúa. Amen.
PM. Cao Huy Hoàng, 12-9-2012
SUY NIỆM LỄ ĐỨC MẸ SẦU BI
MẸ
ĐỨNG KỀ THẬP GIÁ
Lm.
Jos. Tạ Duy Tuyền
Tin Mừng theo thánh Gio-an viết rằng trên Núi Sọ,
"đứng kề thập giá Ðức Giê-su có thân mẫu Người" (Ga 19,25). Đôi khi
chúng ta vẫn tự hỏi: Tại sao lại đứng mà không phải là ngồi? Lại càng không
phải là nằm sóng soài hay lăn lộn giữa đất? Liệu rằng với trái tim của một
người mẹ có thể đứng vững dưới cây thập giá trên đó con mình bị đóng đinh, thân
mình nát tan, đang quặn đau từng hồi hay không?
Mẹ có thể than khóc. Mẹ có thể la hét. Mẹ có thể
nguyền rửa kẻ giết con mình! Nhưng không. Mẹ đứng đó lặng yên. Mẹ đứng đó như
lời ca từ của cha Kim Long đã viết: "Mẹ đứng đó khi trời đã tím mầu...; Mẹ đứng đó tâm
hồn tê tái sầu...". Mẹ đứng đó như một chứng nhân về cái chết
cứu đời của Con yêu quý. Mẹ đứng đó trong nỗi đau xé nát con tìm như là sự
thông phần đau khổ cùng Con. Vâng, mẹ đã thông phần cứu chuộc nhân loại qua cái
chết của Con. Mẹ đã vượt qua đau thương để cùng con cứu đời. Nhưng, chúng ta tự
hỏi: điều gì đã khiến Mẹ can đảm như thế? Bởi đâu Mẹ có thể đứng vững trước nỗi
đau của Con cũng là của Mẹ? Có lẽ lý do duy nhất chính là lòng tin nơi Mẹ. Một
lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa có thể làm mọi sự mà Mẹ luôn đáp
lại bằng hai tiếng xin vâng.
Có thể nói từ ngày truyền Tin, từ khi thưa Xin Vâng
(Fiat) cho đến lúc đứng dưới chân Thập Giá, cuộc hành trình đức tin của Mẹ đã
trải qua nhiều chặng, nhiều khúc, nhiều tình tiết, nhiều thử thách, đau khổ mà
không phải lúc nào Mẹ cũng hiểu rõ và Mẹ đã không lường trước được. Lần giở lại
Kinh Thánh ta thấy: Mới nhận lời sứ thần truyền tin chưa bao lâu, thử thách đã
tới: Giu-se định tâm âm thầm rút lui. Ma-ri-a chẳng phân bua gì cả, tiếp tục
phó mình cho Ðấng Toàn Năng. Cuộc đời Mẹ đầy thăng trầm. Có lẽ khó có ai chịu
nhiều đau khổ bằng Mẹ. Khi mang thai bị nghi ngờ. Khi sinh con thì thiếu thốn
tư bề. Rồi trốn chạy kẻ giết hài nhi. Khi lạc con 3 ngày nơi đền thờ. Khi con
mình bị chống đối lòng Mẹ cũng hoang mang. Và có lẽ không nỗi đau khổ nào bằng
việc an táng con yêu của mình như lời ca dao ngày nào đã nói:
“Là
vàng còn ở trên cây – Lá xanh rụng xuống trời chăng hỡi trời”.
Mẹ đã đi qua những đỉnh đồi thương đau. Mẹ đã đối diện
với mọi nghịch cảnh bằng thái độ xin vâng hoàn toàn theo thánh ý Chúa.
Phải chăng đó là cách sống mà Mẹ muốn chúng ta noi
gương. Dù cuộc đời có lắm bể dâu. Dù dòng đời có nhiều trái ngang. Nhưng hãy
tin vào quyền năng Chúa sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Là người ai trong chúng ta cũng không thiếu những nghi
kỵ, hiểu lầm ghen tương. Hãy can đảm đón nhận trong im lặng để Thiên Chúa tháo
gỡ cho chúng ta. Là người ai cũng có lúc thiếu thốn tư bề. Hãy can đảm phó thác
nơi Chúa, vì Ngài sẽ thực hiện điều tốt đẹp nhất nơi chúng ta. Cuộc đời không
thiếu thập giá, hãy can đảm vác lấy, vì quyền năng Chúa sẽ nâng đỡ những yếu
đuối của chúng ta.
Nguyện xin Mẹ
Maria giúp chúng con có một đức tin trung kiên như Mẹ để cuộc đời dù lắm gian
truân nhưng chúng con vẫn tín thác trong vẹn như Mẹ. Amen
Lm.
Jos. Tạ Duy Tuyền
BIẾT ƠN MẸ ĐỒNG CÔNG CỨU CHUỘC
PM.
Cao Huy Hoàng
Có một bài hát
về Đức Mẹ, xin được imprimatur, trong bài hát ấy có nhóm từ “Mẹ Đồng Công Cứu
Chuộc”. Một linh mục chuyên dạy thần học trong ban xét duyệt đề
nghị: ‘đổi nhóm từ “Đồng Công Cứu chuộc” thành nhóm từ khác, vì
Giáo Hội chưa công bố tín điều “Đồng Công Cứu Chuộc”.
Tác giả ấy hơi buồn, không đổi,
và cũng không phổ biến bài hát. Được hỏi, tác giả ấy trả lời: “Buồn vì nhóm từ
này đã sử dụng cả thế kỷ nay, kể cả bài hát của Linh Mục Nhạc Sư Kim Long, cây
Đại Thụ Thánh Nhạc Việt Nam, trong bài Mẹ Đứng Đó: “Mẹ đứng đó tâm hồn tê tái
sầu, Đồng Công cùng con dấu yêu…”. Không đổi vì tôi muốn giữ cho tôi cảm nghiệm
sâu sắc về hai từ Đồng Công. Không phổ biến là vì chưa được phép”.
Anh cảm nghiệm thế nào về hai từ Đồng Công?
Cảm nghiệm từ
tấm lòng của mẹ tôi, mẹ bạn, mẹ chúng ta, những người mẹ trần gian. Tôi đơn
giản đặt mình vào cuộc thương khó của Chúa Giê-su, đặt mình bị án tử hình, đặt
mình hấp hối trên Thập Giá, đặt mình rùng mình trước khi tắt thở, đặt mình gục
đầu xuống…chết. Và đặt mẹ tôi trong vai Mẹ Maria đứng dưới chân thập giá. Tôi
không biết lúc ấy Mẹ Maria đau khổ như thế nào, nhưng nếu là Mẹ tôi, chắc Mẹ
tôi đứt từng đoạn ruột, xem như mẹ tôi cũng đang chết cùng tôi.
Như vậy, cái
chết của tôi trên thập giá, có cả cái chết của mẹ tôi kìa, đang đứng dưới chân
thập giá kìa, đứt ruột! Mẹ chết đứng! Cũng thế, tôi nghĩ cha Kim Long đã đọc,
đã suy, đã cầu, đã thấm đẫm nỗi đau của Mẹ Maria khi Ngài viết “Mẹ đứng đó”,
nhưng thực ra, có thể nói là “Mẹ đang chết đứng đó”. Và cho tới hôm nay,
thiết tưởng cả và thế gian này không ai hiểu nỗi việc “Đồng Công Cứu Chuộc” của Mẹ bằng
chính Con Của Mẹ.
Bởi vì, Mẹ
Maria đã tập chết từ lúc “Xin Vâng” hay đúng hơn đã cùng chết với Con Mẹ
từ giây phút “Xin
Vâng” ấy. “Xin Vâng” của Mẹ là bằng lòng cho Ngôi Hai
Nhập Thể, cũng là lúc Ngôi Hai “Xin Vâng” ý của Thiên Chúa Cha mà nhập thể
trong cung lòng Mẹ. Bất kỳ động thái “Xin Vâng” nào cũng hàm chứa một sự từ bỏ mình,
một lần chết đi ý riêng của mình, chết đi cái tôi của mình, một lần tử vì đạo
không đổ máu.
Đúng là, cả
Chúa Giê-su Con Mẹ, và cả Mẹ nữa, đều vâng phục Thánh Ý của Cha: “Người đã học
vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn
nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người” (x. Dt
5, 7-9)
Chúng ta vẫn
suy gẫm ‘Bảy
Sự Thương Khó” của Đức Mẹ và không nghiệm ra là bảy lần “Xin Vâng”,
bảy lần chết đó sao? Mỗi lần “Xin Vâng” như thế đều vì sứ mệnh cứu chuộc của
Con mình, hơn là vì mình.
Mẹ đã được
sinh ra để tử vì đạo. Mẹ là người được Tử Vì Đạo đầu tiên trong Tân Ước. Hơn
nữa, cuộc Tử Vì Đạo không đổ máu ấy lại cùng lúc với cuộc Tử Vì Đạo Đổ Máu của
Con Mẹ trên Thánh Giá kia, trước mắt Mẹ. Chắc hẳn Mẹ đã suy gẫm trong lòng điều
Mẹ đã “Xin
Vâng”, suy gẫm cả những điều xảy ra cho Mẹ, và suy gẫm cả lời tiên
tri đáng buồn: “Đây
trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được
đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần Bà, một lưỡi
gươm sẽ đâm thấu tâm hồn Bà, để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ”
(Lc 2, 34-35).
Điều Mẹ suy
gẫm trong lòng hẳn phải là suy gẫm về sự chết hằng phút hằnggiờ của Mẹ, chết
cái riêng mình để đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhân loại được cứu chuộc. Mẹ đã tập
chết từng phút, hay nói đúng hơn, Mẹ đã sống trong sự chết vì thánh ý của Thiên
Chúa.
Đã đến hồi cụ
thể cái chết của Mẹ, Thánh Gioan thuật lại cái chết của Chúa Giê-su “Đứng gần thập
giá Chúa Giêsu có Mẹ Người…” (Ga 19, 25). Và chỉ chừng ấy thôi. Tác
giả không thể thuật lại nỗi đau vô hình trong lòng Mẹ, cũng không thể diễn tả
bằng loại ngôn ngữ nào nói về cái chết “không thấy được” của một người Mẹ “đang chết đứng”
dưới chân thi hài con mình! Cái chết do lòng quảng đại hiến dâng con mình để
cứu chuộc nhân loại. Cái chết do lòng khiêm tốn thuận tình thuận ý Thiên Chúa
Cha. Cái chết do lòng vâng phục tuyệt đối. Cái chết do lòng Tin hoàn toàn, Cậy
vững vàng, và Mến nồng nàn dành cho Thiên Chúa Cha để Ngài thực hiện ý định Cứu
Chuộc nhân loại. Rồi Thánh Gioan kể tiếp: “Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu,Chúa Giêsu
thưa cùng Mẹ rằng: "Thưa Bà, này là Con Bà". Rồi Người lại nói với
môn đệ: "Này là Mẹ con". Và từ giờ ấy, môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà
mình”.
Thêm một lần “Xin Vâng”
của Mẹ. Thêm một lần hiến dâng cho công cuộc cứu chuộc nhân loại. Mẹ làm Mẹ các
con cái của Chúa Giê-su. Mẹ nhận lãnh trách nhiệm đem những kẻ tin vào Con mình
vào Nước Hằng Sống.
Thảo nào, Hiến
Chế Tín Lý Về Giáo Hội, Lumen Gentium, Chương VIII, “Ðức Nữ Trinh Maria Mẹ Thiên Chúa Trong Mầu
Nhiệm Chúa Kitô Và Giáo Hội”, số 61 đã viết: “Cộng tác vào việc cứu chuộc: Từ muôn đời,
Ðức Nữ Trinh đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc nhập thể
của Ngôi Lời Thiên Chúa. Và theo chương trình của Chúa Quan Phòng, trên trần
gian Ngài đã trở nên Mẹ cao trọng của Ðấng Cứu Chuộc thần linh, và cách đặc
biệt hơn mọi người khác, Ngài là cộng sự viên quảng đại và tôi tá khiêm hạ của
Chúa. Vì đã cưu mang, sinh hạ và nuôi dưỡng Chúa Kitô, đã dâng Chúa Kitô lên
Chúa Cha trong đền thánh và cùng đau khổ với Con mình chết trên thập giá, Ðức
Maria đã cộng tác cách rất đặc biệt vào công trình của Ðấng Cứu Thế, nhờ lòng
vâng phục, nhờ đức tin, đức cậy và đức ái nồng nhiệt, để tái lập sự sống siêu
nhiên cho các linh hồn. Bởi vậy, trên bình diện ân sủng, Ngài thật là Mẹ chúng
ta”
Trong khi chờ
đợi một công bố về “Tín Điều Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc”, hoặc chờ
đợi một Lễ Đức Mẹ Sầu Bi, Mẹ Đau Thương, được đổi thành Lễ “Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc”, để các
tín hữu yêu mến Mẹ hơn, biết ơn Mẹ nhiều hơn, thì thiết tưởng, thời khắc nào đi
nữa, mỗi chúng ta cũng có thể hát bài “Mẹ Đứng Đó” mà sẻ chia niềm đau và biết ơn Mẹ
đã cộng tác vào công cuộc cứu chuộc nhân loại và mỗi chúng ta. Cũng có thể gẫm
suy toàn bài Stabat Mater (Mẹ đứng dưới chân Thập Giá) của Giacopone da Todi
(1360), tu sĩ dòng Phanxicô, hoặc ít là tâm niệm câu kinh nguyện này trong bài
thơ ấy:
“Lạy Chúa, xin
cho lòng con cháy lửa mến yêu, mến yêu Đức Kitô là Thiên Chúa, để cho con có
thể làm đẹp ý Người”. A men
PM. Cao
Huy Hoàng, 13-9-2012
YÊU ĐẾN CÙNG
(Mc 8, 27 – 35)
Sống vĩnh cửu muôn đời lệ thuộc
Tin Đức Kitô cứu chuộc trần gian
Đi đôi lời nói việc lành
Tuyên xưng trọn vẹn chân thành thiết tha
Suy tôn Chúa tụng ca muôn điệu
Đấng Thiên Sai kỳ diệu huyền siêu
Trở nên hiến lễ toàn thiêu
Chẳng sao thấu hiểu Tình Yêu cứu đời
Hạ mình xuống làm người dương thế
Đấng Cứu Tinh Nhập Thể
Ngôi Hai
Hiến dâng tự hủy miệt mài
Đớn đau dai dẳng kéo dài triền miên
Thật huyền nhiệm vô biên giấu ẩn
Ôi ! Tình Yêu bất tận thánh ân
Tinh tuyền tuyệt đối vô ngần
Yêu thương đón nhận tâm thân não nề
Đồi tử nạn Cavê còn đó !
Ánh vinh quang chiếu tỏ sáng ngời
Máu Chiên cứu Độ cao vời
Thiên đường phúc hạnh cho người thực thi
Vị tử đạo kiên trì chiến đấu
Yêu đến cùng đổ máu hi sinh
Theo Thầy từ bỏ chính mình
Hằng ngày mang ách khổ hình mà đi.
Lm.
Khuất Dũng sss
ĐƯỜNG ĐỨC KITÔ ĐÃ ĐI
(Mc 8, 27-35)
Thầy trò hướng tới Cêsa
Dọc đường Chúa hỏi: Người ta nói gì ?
Kẻ rằng: Tẩy Giả tái sinh,
Người kia lại bảo Êli hiện hình.
Đa phần khẳng định Tiên Tri,
Từ trời sai đến thực thi lệnh truyền.
Thầy là ai ? Anh em hãy nói lên,
Phêrô đại diên xưng tên rõ ràng
Kitô, Đấng Thánh, Trời ban,
Làm người cứu thế, trần gian đợi chờ.
Ngài liền nghiêm cấm nặng lời,
Đừng cho ai biết: rằng Người là ai ?
Chúa còn tuyên bố công khai,
Con Người phải chết, ba ngày phục sinh.
Phêrô can gián tức thì,
Thầy đừng nói gở kẻo sinh nghi ngờ.
Chúa liền quở trách nhiều lời:
Satan mau séo lại sau lưng thầy.
Anh toàn tư tưởng loài người,
Chẳng như ý muốn Chúa Trời cao sang.
Những ai muốn Nước Thiên Đàng,
Theo tôi thập giá vững vàng vác đi.
Còn ai muốn cứu mạng mình,
Hãy từ bỏ nó, thực thi Tin Mừng.
Lm. Pet. Vĩnh Tiến
CHẾT VÀ SỐNG LẠI
“Con Người phải chịu đau khổ nhiều…,
…bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống
lại”.
(Mc 8,31)
Lời chân lý soi đường thập giá
Cho môn sinh tỏa sáng đức tin:
Con Người phải chịu khổ hình,
Ba ngày sau sẽ phục sinh khải hoàn
Đường lối Chúa gian nan trần thế
Luyện lòng thanh diệu kế trường sinh
Ý Cha mầu nhiệm huyền linh
Sai Con Chúa đến trọn tình hiến dâng
Giêsu chết treo thân thánh giá
Qui tụ về tất cả chúng ta
Lời Ngài: ai muốn theo Ta
Bỏ mình vâng phục ý Cha mọi đàng
Vác thánh giá chính là hiệp nhất
Với Giêsu sống thật cùng nhau
Yêu thương chia sớt khổ sầu
Cho người bất hạnh nhịp cầu cảm thông
Tình yêu đẹp trổ bông thập giá
Cánh hồng tươi điểm lá chen gai
Tin yêu con bước theo Ngài
Bỏ mình, thánh giá kề vai mỗi ngày
Con nguyện ước từ đây sẽ sống
Suốt cuộc đời nên giống Giêsu
Ý Cha ngời sáng tâm tư
Lễ con dâng Chúa thắm như máu hồng.
Nt.
Bích Ngọc
THẦY LÀ AI?
(CN 24 TN B – Mc 8, 27-35)
Người ta nói Thầy là ai vậy?
Các môn sinh đứng đấy liền thưa:
Elia ngôn sứ thưở xưa
Gioan Tẩy Giả đã đưa chém đầu
Phê-rô khẳng khái mau rành rõ
Được Chúa Cha lộ tỏ liền hô
Chính Thầy là Đức Ki-tô
Con Cha hằng sống “Vầng Ô” vũ hoàn.
Thầy cũng hỏi y chang như vậy
Bảo Thầy là ai vậy? với con
Thầy là vua của lòng con
Chính Thầy là Đấng vẹn toàn tín
trung.
Con đáp trả cùng chung sứ mệnh
Tựa môn đồ giữ lệnh truyền rao
Con tuyên xưng Đấng Anh Hào
Ki-tô Đức Chúa Đấng trao thân mình.
Người báo trước khổ hình sắp tới
Sẽ bị
đời giết với phục sinh
Sau ba ngày sẽ quang vinh
Khải hoàn chiến thắng uy linh rạng
ngời.
Ai muốn tiến trong đời theo Chúa
Chết đi như hạt lúa được gieo
Để nên giống Đấng Thánh Nghèo
Vì yêu đã tự nguyện treo thập hình.
Scholastica
PHÊRÔ TUYÊN TÍN
CN XXIV TN-B - (Mc 8,
27-35)
Người ta nói: Thầy là ai vậy?
Chính là Gio-an Tẩy giả đây
Ê-li-a, rực lửa mây
Hay ngôn sứ Chúa tràn đầy vinh quang.
Thầy là ai? Rõ ràng tuyên tín
Phê-rô liền khẳng định tỉnh khô
Thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô!”
Tông Đồ thấu hiểu bên mồ Phục Sinh.
Lựa chọn Chúa tự tình tự nguyện
Một đức tin thăng tiến nhiệm mầu
“Còn anh em”, hỏi thẳm sâu
Tự do trực diện cúi đầu kính tôn.
Chuỗi tuyên tín học ôn lặp lại
Ngày hiểu hơn mạc khải hồng ân
Biết căn tính Đấng cứu trần
Thăng trầm theo Chúa sáng dần đức tin.
Phê-rô né hy sinh đau khổ
Chúa chỉ đường cứu độ vượt qua
Vác cây thánh giá xót xa
Đồng hình đồng dạng đồng ca khải hoàn.
Con tuyên giữa diễn đàn trần thế
Đấng Ki-tô tế lễ huyền siêu
Tin Thầy dám sống dám liều
Dám yêu dám chết thiên triều nở hoa.
Cát
Vàng
THẦY LÀ AI
“Người ta bảo, Thầy là ai?”
Tin Ngài, tôi trả lời Ngài làm sao?
Dẫu rằng phải nặng gian lao
Phải qua đau khổ mới vào vinh quang
Ngài là Quân tử Chính nhân
Tôi trung Đức Chúa chuộc thân tội đồ
Được Xức Dầu, Đấng Kitô
Thiên sai giải phóng vong nô phận người
Theo Ngài chân bước về trời
Phải từ bỏ chính con người hư hoang
Hành trình thập giá chu toàn
Và nên công chính thiện toàn ban sơ
Bỏ con người cũ bây giờ
Nên hình ảnh Chúa ngày thơ địa đàng
Nhờ Thập Giá tôi kiện toàn
Đồng hình đồng dạng, nồng nàn thiên thu
Niềm tin kiên vững bền lâu
Vì tin chấp nhận khổ đau trong Ngài
Đi qua cuộc sống trần ai
Tôi về chung cuộc với Ngài trường sinh
Đường Giêsu thắm duyên tình
Yêu thương thắm thiết Thập Hình nở hoa
Bỏ đường tội lỗi gian tà
Hân hoan tấu khúc hành ca vào đời
Mic.
Cao Danh Viện
CÁC CON BẢO THẦY LÀ AI?
Hành trình xuôi ngược gian nan
Bất ngờ Chúa hỏi lan man đường dài:
“Người ta bảo Thầy là ai?”
Các ông hồi đáp: “Nghe vài tin xa
Gio-an Tẩy Giả ngọc ngà!
Ê-li-a đến thật thà dạy dân!
Một tiên tri lớn thế trần!”
Chúa quay hỏi rất ân cần “Mười Hai”
“Các con bảo Thầy là ai?”
Phê-rô tuyên tín công khai cùng Thầy:
“Thầy: Đấng Ki-tô cao dầy”
Nhưng Người nghiêm cấm chuyện nầy lộ
ra
Người cho các ông biết là:
“Con Người phải chịu hải hà đau
thương
Bị các Kỳ-mục khinh thường
Bị giết nhưng sẽ phi thường phục
sinh”
Người không úp mở chuyện mình
Phê-rô vội kéo thân tình Chúa riêng
Trách yêu chuyện Chúa chẳng kiêng
Nhưng Người quay lại quở liền Phê-rô:
“Sa-tan, xéo gấp, hồ đồ
Tư duy anh thật ngây ngô loài người
Chẳng bởi từ Chúa của ngươi”
Rồi Người cho gọi mọi người đến nghe:
“Theo Ta, Thập Giá nặng đè
Theo Ta, phải tập răn đe bỏ mình
Vì phàm ai muốn cứu mình
Người này sẽ mất thật tình mạng thôi
Còn ai liều bỏ mạng tồi
Vì Ta, vì chính tinh khôi Tin Mừng
Mạng mình rực rỡ sáng trưng
Ngày sau vinh hiển tưng bừng trường
sinh.”
Một đời bần, phú, nhục, vinh
Tử thần đeo bám mò rình khắp nơi
Bo bo ích kỷ một đời
Coi chừng đến buổi đến thời, xuôi tay
Hoàng thân cũng giống ăn mày
Duy còn phân biệt gian, ngay sinh thời
Dù cho vật đổi sao dời
Lời Chúa hướng dẫn đời đời chẳng sai
Ai yêu mạng sống ai tai
Ai liều vì Chúa ngày mai rạng ngời.
Một Đấng Ki-tô trên đời
Giê-su: Con-Đức-Chúa-Trời muôn cao
Ngoài Ngài chẳng có Danh nào
Được ban cứu độ cho vào thiên cung.
Giuse
Nguyễn Văn Sướng
THẬP GIÁ CUỘC ĐỜI
(Mc 8, 27-35)
“Nếu
ai muốn theo Ta
Thì
phải biết hi sinh
Vác
thập giá đời mình
Hằng
ngày mà theo Ta.”
Trên
đường trần con qua
Chúa
ơi, bao tội tình
Thánh
giá tuy vô hình
Nhưng
hai vai trĩu nặng
Những
tháng ngày mưa nắng
Ngược
xuôi giữa dòng đời
Lúc
hạnh phúc tuyệt vời
Khi
đau thương phủ lối
Những
lúc đời tăm tối
Xin
Ngài bước cùng con
Thánh
giá dù chon von
Có
tay Ngài nâng đỡ
Những
lúc đời tan vỡ
Ngài
ôm trọn yêu thương
Vẫn
cùng con trên đường
Tiến
bước tới tương lai
Đi
qua năm tháng dài
Về
bến bờ hạnh phúc.
14/9/2012
Song Lam
CON HIỂU NGÀI LÀ AI
(Mc 8, 27-35)
Khi con vác thập giá đời mình
Lại thầm trách nhiều nỗi điêu linh
Than van đời bể dâu trái ý
Thương thân, tiếc phận, bạc nhân sinh
Khi con vác thập giá gia đình
Lòng ích kỷ đong đếm phân minh
Chỉ thấy người thân nhiều khiếm khuyết
Gánh ân tình, cạn nghĩa phù sinh
Khi
chia thập giá anh em mình
Phiền
lòng san sẻ kiếp tử sinh
Đôi
khi muốn được hảo danh tiếng
Chẳng
trọn thâm giao, chẳng an bình
Con
vác thập giá theo chân Ngài
Nghĩ
mình rộng lượng cả hai vai
Gánh
sẻ chia, gánh đau, gánh khổ
Nhưng
thiếu tình yêu, sẽ phí hoài
"Vậy các con bảo Thầy là ai?"
Tiên
tri, hay chính Đấng Thiên Sai
Chỉ
là tử tội trên Thánh Giá
Chỉ
biết yêu thương nát hình hài
Chính
Ngài nhẹ đỡ gánh trên vai
Cúi
xuống cùng con vác đường dài
Tận
tâm thông cảm ngàn yếu đuối
Dạy
khổ vì yêu giữa trần ai
Con
hiểu đường Thánh Giá nhiệm mầu
Là
biết sống cho người thương đau
Con
hiểu Ngài: tình yêu lớn nhất!
Chết
cho người được sống ngàn sau.
14-9-2012
Hương
Sion
THEO THẦY
(Mc 8 , 27-35)
Chúng
con đã biết Thầy là ai
Xuống
trần, nhập thể - chính Ngôi Hai.
Dạy
cho nhân loại điều công chính
Chỉ
bảo người dân những trái sai.
Đau
khổ triền miên rồi chịu chết
Đòn
roi tới tấp nát hình hài.
Theo
Thầy phải hy sinh, từ bỏ...
Thập
hình mình vác nặng oằn vai.
Đỗ Văn
HÀNH ĐỘNG ĐỨC TIN
Người ta nói Thầy là ai
Môn đệ liền đáp một vài tiên tri
Gioan Tẩy Giả đôi khi
Kẻ khác gọi Êlia là Ngài
Hỡi các con Thầy là ai
Chính Thầy là Đức KiTô xuống trần
Phêrô đáp chẳng phân vân
Chúa liền ngăn cấm chẳng cần nói ra
Chúa rao giảng rằng Ta bị hại
Ba ngày sau sống lại quang vinh
Thế gian tăm tối bất bình
Xin theo chân Chúa hy sinh giúp đời
Ai theo Ta hỡi người mong ước
Thập giá mình phải được vác đi
Đau thương khổ cực sầu bi
Vui lòng chấp nhận chỉ vì tha nhân
Một Đức tin rất cần hành động
Gieo Lời Chúa vang vọng bốn phương
Ánh sáng tỏa khắp con đường
Hy sinh bác ái yêu thương tràn đầy
Vác thập giá theo Thầy Chí Thánh
Lời nói Ngài là bánh trường sinh
Quên đi mạng sống chính mình
Là ta tìm được bình minh nước Trời
Tình yêu Thiên Chúa rạng ngời.
Vincent
Khánh Trần
ĐƯỜNG TÌNH
CN XXIV TN-B – (Mc 8, 27 – 35)
Đường tình thập giá, Chúa xin
vâng,
mời gọi môn sinh, thông dự
phần.
Từ bỏ chính mình, xa ảo ảnh,
Trung thành sứ mạng, thoát phù vân.
Kinh qua đau đớn, vinh quang
đến,
Vượt thắng khổ sầu, hạnh phúc
dâng.
Mạng sống hiến trao, vui tìm
thấy,
Tình Yêu Viên Mãn, hưởng thiên
ân.
13/09/2012
Hạt Nắng
THẦY LÀ AI?
CN XXIV TN-B – (Mc 8, 27 – 35)
Thầy là ai? Nhân thế mong chờ!
Thầy là ai? Giữa cuộc đời các con!
Bước đường chông gai, tình yêu dâng
hiến,
con tim tự nguyện, gánh vác thập
hình,
trung trinh, chu toàn thánh ý.
Đường Thầy đi, bão tố giăng đầy,
tình nồng say, dẫu gập ghềnh, đắng cay.
Lưỡi đòng đâm thâu, vòng gai nhuốm máu,
thương đau nhục hình, gánh lấy tội tình,
khát vọng, cứu chuộc nhân sinh.
Đường
Thầy đi, anh em muốn theo?
Đầy
hiểm nguy, vất vả, cheo leo,
chẳng
được giầu sang, chẳng chức quyền, danh vọng,
sống
tình hiệp thông, trái tim nồng dâng hiến.
Đường
Thầy đi, anh em muốn theo?
Bỏ
mình đi, thập giá trên vai,
tin
tưởng ngày mai, hạnh phúc trong tình Ngài,
Nước
Trời huyền siêu, viên mãn, tình thương yêu.
Thầy là ai? Con Chúa giáng trần,
đường Thầy đi, cứu chuộc cho thế nhân.
Suối nguồn bao la, ơn thiêng thập giá,
tha nhân an hòa, kín múc ân tình,
ước vọng, sống lại trường sinh.
14/09/2012 - M. Madalena Hoa Ngâu
CHÚA ƠI! BIẾT TRẢ LỜI SAO?
CN XXIV TN-B – (Mc 8, 27 – 35)
Đường thập giá, dẫn đưa về nguồn sống,
đường phục sinh, thoát ảo mộng trần gian.
Đường khổ hình, dẫn đưa tới vinh quang,
đường mạc khải về suối nguồn hạnh phúc.
Chúa kinh qua, chịu đớn đau, khổ nhục,
lễ tế hy sinh, tuôn hồng phúc cho dời.
Hiến thân mình, đồi cao máu lệ rơi,
lòng thương xót, khối tình thương cứu độ.
Đấng Thiên Sai, trước bão bùng, giông tố,
vác thập hình, tỏ lộ trái tim yêu.
Chịu nhục nhã, chịu thân xác tiêu điều,
vâng Thánh ý, cho trần gian, ơn giải thoát.
***
Giữa dòng đời, tâm hồn con phiêu bạt,
đường công danh làm lung lạc niềm tin.
Mờ lương tri, ham địa vị, cầu vinh,
ngại từ bỏ, ngại hy sinh, khổ chế.
Ngại cửa hẹp, sợ người đời khinh dễ,
sợ kém thua, luồn lách để hơn người.
Giữ đạo hợt hời, giới răn thả buông trôi,
sợ phiền toái, chuyện kinh doanh lời lãi.
Nay Chúa hỏi, con giật mình, ngây dại,
Ngài là ai? Con biết trả lời sao?
Nói tin Ngài, mà dạ cứ xôn xao,
vinh hoa thế tục, chạy theo đường bất chính.
***
Hạnh phúc thật, Chúa công khai minh định,
muốn theo Ngài đừng toan tính lợi, danh.
Từ bỏ mình, chuyện trần thế đua tranh,
vác thập giá mình, đồng hành theo chân Chúa.
Hồn thanh luyện, như vàng trong lò lửa,
dạ thanh cao trước của cải trần gian.
Phó thác, tin yêu, trước giông tố đại ngàn,
tự do, đoạn tuyệt tiền tài danh, lợi, thú.
Con bừng tỉnh, sau tháng ngày mê ngủ,
Ngài là ai ? Con đã có câu trả lời.
Là Tình Yêu, lòng thương xót khôn nguôi,
là Tin Mừng Cứu Độ, là lời ban Sự Sống.
Là Đấng Kitô, một tình yêu sống động,
lòng thương xót vô bờ, hằng khát vọng tình yêu.
14/09/2012
Bâng Khuâng Chiều Tím
NGÀI LÀ AI?
CN XXIV TN-B – (Mc 8, 27 – 35)
Đường tình ngày đó, Chúa đã đi qua,
nồng nàn hiến dâng tình yêu thập giá.
Con đường vâng phục ý Cha,
khổ hình, nhục nhã kinh qua,
sức sống Phục Sinh chan hòa bừng
sáng.
Gập ghềnh, gợn sóng, giữa những bon
chen,
lời Ngài vang lên, nồng say lửa mến.
Tâm hồn như hạt muối, men,
theo Ngài, thập giá trung kiên,
đốt cháy tình riêng, nên duyên cùng
Ngài.
Ngài là ai? Là Đấng Thiên Sai huyền siêu.
Ngài là ai? Là Đấng Ki-Tô tình yêu.
Xác thân tiêu điều, bước trong nắng chiều,
bao la khối tình nhân ái.
Ngài là ai ? Chuộc lấy con trong tội nhơ.
Ngài là ai ? Tìm kiếm chiên hoang bơ vơ.
Tiếng yêu vô bờ, dẫu ai hững hờ,
trao
ban tình nồng mến thương.
Đường trần ngời sáng, đốt cháy đam mê,
giã từ u mê, phù vân, lạc thú.
Khước từ danh vọng viễn du,
tình Ngài thương xót thiên thu,
tiếp sức cho con, tín trung cùng Ngài.
13/09/2012
- Nắng Sài Gòn
CON ĐƯỜNG CHÚA ĐÃ ĐI QUA
CN XXIV TN–B – (Mc 8, 27 – 35)
Chúa dạy ta con đường hạnh phúc,
đường vinh quang ân đức mai sau.
Là đường chấp nhận khổ sầu,
khiêm nhu đón nhận đớn đau thập hình.
Đường từ bỏ chính mình, tự hạ,
đường chông gai vất vả gian nan.
Quyền cao chức trọng chẳng màng,
chén đắng uống cạn dẫu ngàn hiểm
nguy.
Đường phục vụ thực thi bác ái,
đường dấn thân chẳng ngại hy sinh.
Trung kiên vác thập giá mình,
chấp nhận đau khổ nhục hình bước
theo.
Vui đón nhận khó nghèo khổ lụy,
không tranh giành địa vị cao sang.
Tâm hồn thư thái bình an,
bước qua đau khổ vinh quang đón chờ.
Ngài
là thần tượng ước mơ,
là
Đấng Cứu Độ mong chờ bấy lâu.
Tình
yêu Thiên Chúa nhiệm mầu…
AP. Mặc
Trầm Cung
0 nhận xét:
Đăng nhận xét