Chúa Nhật 27 Thường Niên
Bài Đọc I: Sáng
Thế 2:18-24 II: Do
Thái 2:9-11
|
|
Phúc Âm
Máccô 10:2-16
2 Có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và
hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không ?" Họ hỏi thế
là để thử Người.
3 Người đáp: "Thế ông Môsê đã truyền dạy
các ông điều gì ?"
4 Họ trả lời: "Ông Môsê đã cho phép viết
giấy ly dị mà rẫy vợ".
5 Đức Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông
lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông.
6 Lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa
đã làm nên con người có nam có nữ;
7 vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó
với vợ mình,
8 và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
9 Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly".
10 Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về
điều ấy.
11 Người nói: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác
là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình;
12 và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng
phạm tội ngoại tình"
13 Người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để
Người chạm tay vào chúng. Nhưng các môn đệ xẵng giọng với chúng.
14 Thấy vậy, Người bực mình nói với các ông:
"Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa
thuộc về những ai giống như chúng.
15 Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước
Thiên Chúa như một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào"
16 Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc
lành cho chúng.
|
|
·
|
Chi
Tiết Hay
·
(c.4) Chúa Giêsu giải thích về luật ly dị.
Luật Môsê đựợc dùng để bảo vệ người đàn bàvào thời mà tục ly dị rất thịnh
hành. Giấy phép ly thư là để chứng nhận người vợ không còn lệ thuộc vào người
chồng, và có thể lấy chồng khác.
·
(cc.6-9) Chúa Giêsu trích một đoạn trong sách
Khởi Nguyên trước thời ông Môsê, "thuở ban đầu của trời đất", để
giải thích ý định của Thiên Chúạ Khi tạo ra nam và nữ, Thiên Chúa muốn hôn
nhân là một sự kết hợp không thể phân ly giữa một người đàn ông và một người
đàn bà. Một sự kết hợp vững chắc vì chính Ngài tạo nên luật này (c. 9). Trong
câu này, Chúa Giêsu khuyến khích các cặp vợ chồng sống kết hợp và chung thủy
với nhau cho đến chết.
·
(c.11) Trong luật Do Thái thời đó, người đàn
ông phạm tội ngoại tình thì có lỗi với chồng của người đàn bà chứ không có
lỗi với vợ mình. Điều này nói lên việc trọng nam, khinh nữ. Chúa Giêsu thì
khẳng định rằng người đàn ông lỗi phạm khi ly dị vợ mình. Ngài đã nâng người
nữ lên ngang hàng với người nam.
·
(cc.13-14) Thánh Maccô tả một cách sống động
cảnh những đứa nhỏ được mang tới cho Chúa Giêsu để Ngài đặt tay trên chúng và
ban phép lành. Các môn đệ đã ngăn cản có lẽ vì thời đó trẻ nhỏ không được coi
là quan trọng. Chúa Giêsu đã phải sửa dạy các ông. Đoạn này cho thấy các môn
đệ vẫn còn hiểu lầm Chúa Giêsu.
·
(cc.14-15) Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy đón
nhận lời Người với tâm tình của một trẻ nhỏ, Ngài kêu mời chúng ta hãy nhìn
lại bản thân để thấy sự yếu đuối của mình. Khi nhìn nhận mình tầm thường,
chúng ta sẽ có thể mở lòng mà đón nhận lời Chúa như món quà. Khác với những
người lớn, các trẻ em đón nhận Nước Chúa với tất cả lòng tin.
|
Một
Điểm Chính
Thiên Chúa, là Tình Yêu, đã giải thích cho chúng ta, những
đứa con được dựng lên theo hình ảnh Ngài, thế nào là tình yêu. Tình yêu là
cho đi chính mình, như trong hôn nhân, khi hai người không còn là hai mà là
chỉ là một.
|
|
Suy
Niệm
1. Tôi
đang gặp khó khăn với những lời dậy bảo, hay lề luật nào của Chúa Giêsu? Tôi
có thể tin tưởng Ngài đủ để theo Ngài, mặc dù hiện nay tôi vẫn chưa hiểu?
2. Tôi
nhớ lại thời thơ ấu của chính tôi, khi tôi vui sướng mà được lệ thuộc vào cha
mẹ. Và lúc đó, tôi trông chờ những món quà từ cha mẹ biết bao. Tôi xin Chúa
cho tôi được có cùng tâm trạng đó đối với Ngài. Xin cho tôi tin tưởng vào
những dậy dỗ của Ngài: tin rằng những dậy dỗ ấy sẽ đưa tôi đến hạnh phúc thật
và mãi mãi.
|
Lễ
ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv.
1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
1.
Lời kinh của mỗi cá nhân.
Sáng
hôm nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu ảnh hưởng của kinh Mân côi đối với cá nhân
mỗi người chúng ta.
Trước hết tôi xin đưa ra một vài
trường hợp cụ thể. Năm 1507, ông Valentinô bị một bọn cướp bắt cóc để tống
tiền. Chúng đã xiềng chân và khóa tay ông, rồi giam ông trong một ngọn tháp
cao, tối tăm, bẩn thỉu và hôi hám. Trong hoàn cảnh bi đát ấy, ông và gia đình
vẫn tin tưởng và lần hạt kính Đức Mẹ. Rồi một lần kia, khi đã cầu nguyện xong,
ông vô cùng bỡ ngỡ vì bỗng thấy xiềng xích đều mở ra. Tay chân được thong dong,
ông bắt đầu lần mò trong bóng tối, gõ khắp lượt vào tường tháp, đến một chỗ ông
nghe bục bục và ọp ẹp. Ông đẩy mạnh và viên đá nhúc nhích. Ông vội cậy viên đá
để tìm lối thoát thân và thế là ông chạy trốn được bình an vô sự. Phải chăng
Đức Mẹ đã cứu chữa ông và ban xuống cho gia đình ông niềm an ủi.
Kinh
Mân côi không phải chỉ cứu chữa phần xác, mà nhất là nó còn cứu chữa phần hồn.
Hélène là một nàng kỹ nữ đã làm cho bao nhiêu người say đắm. Ngày kia nàng theo
chị em bạn vào trong một nhà thờ, gặp lúc vị linh mục đang giảng về kinh Mân
côi. Về nhà, nàng mua một cỗ tràng hạt, và thỉnh thoảng cũng lần trộm vì sợ
thiên hạ trông thấy và chê cười. Ít lâu sau, nàng được Đức Mẹ ban ơn sốt sắng
khi lần hạt. Rồi từ đó, nàng ăn năn sám hối, làm lại cuộc đời, quyết tâm dâng
mình cho Đức Mẹ, sống một cuộc sống nghèo khó và nhân đức.
Có một thiếu phụ khác, thuộc gia đình
quí phái, chẳng may bị bệnh nặng và đang trong cơn hấp hối. Đức cha Dupanloup
được mời đến viếng thăm. Ngài nhận thấy bệnh nhân rất bình thản khi hỏi: Thưa
Đức cha, liệu con có được lên trời hay không? Cha hy vọng là có. Bệnh nhân đáp lại:
Còn con, con tin đó là một điều chắc chắn. Sao con có thể tin chắc chắn như
thế? Thưa Đức cha, từ nhỏ cho đến nay, mỗi ngày nhiều lần con đã kêu xin Mẹ
giúp con trong giờ lâm tử, lẽ nào Mẹ lại bỏ rơi con.
Qua
những chứng tích sống động ấy, chúng ta nhận thấy kinh Mân côi đã giúp đỡ chúng
ta rất nhiều cả về phần hồn lẫn phần xác. Bởi đó từ xưa cho đến nay, kinh Mân
côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc với người tín hữu.
Tuy
nhiên, chúng ta phải lần hạt như thế nào để việc đạo đức này thực sự đem lại
những lợi ích cho bản thân chúng ta? Tôi xin thưa vừa đọc, chúng ta vừa phải
suy gẫm về những mầu nhiệm kinh Mân côi đã gợi lên cho chúng ta, và nhất là
chúng ta phải sống tinh thần kinh Mân côi, thực hiện những nhân đức mà chúng ta
van xin ở mỗi ngắm. Có như thế, kinh Mân côi mới trở nên là như hơi thở của tâm
hồn, cũng như trở nên là như những cánh hồng tươi xinh dâng kính Mẹ, để Mẹ ban
xuống cho bản thân chúng ta những ơn lành hồn xác.
2.
Kinh Mân Côi.
Hôm
nay chúng ta cùng nhau tìm hiểu về kinh Mân Côi. Trước hết kinh Mân Côi là một việc đạo đức bắt nguồn từ Phúc Âm.
Thực
vậy, kinh
Lạy Cha là gì nếu không phải là lời kinh mà chính Chúa đã dạy cho các
môn đệ. Còn kinh Kính Mừng là gì nếu không phải là lặp lại lời chào của sứ
thần Gabriel và của bà Elisabet. Tất cả đều được rút ra từ Phúc Âm. Hơn thế
nữa, chúng ta còn sống lại trọn bộ Tin Mừng qua những mầu nhiệm của kinh Mân
Côi. Đúng thế 20 mầu nhiệm làm một bản tóm lược Tin Mừng, trình bày cho chúng
ta những giai đoạn chính yếu của cuộc đời Chúa Giêsu từ khi nhập thể cho đến
lúc về trời, cao điểm của chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn
ngàn thuở trước. Với một nội dung như thế, kinh Mân Côi không phải chỉ là một
lời kinh chúng ta đọc trên môi trên miệng, mà còn là những đề tài suy gẫm. Đây
là một việc làm hết sức đơn giản. Chúng ta chỉ cần mường tượng ra những biến
cố, những hình ảnh mà mỗi mầu nhiệm gợi lên, cũng giống như khi chúng ta đi
chặng đàng thánh giá. Nó không đòi buộc chúng ta phải suy gẫm từng lời chúng ta
đọc hay dừng lại lâu giờ nơi mỗi mầu nhiệm. Chẳng hạn chúng ta mường tượng ra
Chúa Giêsu vai vác thánh giá và chúng ta nghĩ đến những khổ đau chúng ta phải
gánh chịu. Như thế mà thôi cũng đã đủ lắm rồi. Chúa Giêsu không phải là một ông
chủ hà khắc, chỉ đánh giá theo những kết quả đã đạt được, nhưng Ngài còn là một
người cha nhân từ thấu rõ thiện chí của mỗi người chúng ta. Nói vậy không có
nghĩa là xoá bỏ những con đường dẫn chúng ta tới đỉnh cao trọn lành. Như thế
kinh Mân Côi sẽ là một việc đạo đức thích hợp cho mọi người, ở mọi nơi và trong
mọi lúc, sẽ đem lại cho chúng ta một nguồn nghị lực thiêng liêng.
Tiếp
đến kinh Mân Côi là một việc đạo đức
luôn được Giáo Hội cổ võ.
Thực
vậy các Đức Thánh Cha không ngừng khuyến khích chúng ta siêng năng lần chuỗi.
Đức Thánh Cha Piô IX khuyên chúng ta lần hạt tại gia đình trong những giờ kinh
tối sớm. Ngài nói: Kinh Mân Côi là một kho tàng quý giá của Giáo Hội công giáo.
Tiếp đó, Đức Thánh Cha Lêô XIII còn đi xa hơn nữa và người ta đã dành cho ngài
tước hiệu là Đức Thánh Cha của kinh Mân Côi. Ngài đã công bố cả thảy 12 thông
điệp và 8 văn kiện khác nữa bàn về kinh Mân Côi. Chính ngài đã thiết lập tháng
Mân Côi để thúc đẩy việc lần chuỗi, cũng như đã thêm vào kinh cầu Đức Bà câu:
Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi. Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắn nhủ: Nếu các con muốn
cho gia đình mình được bình an và hạnh phúc thì hãy lần chuỗi với nhau mỗi buổi
tối. Đức Thánh Cha Piô XII đã huấn dụ: Chúng ta khuyên nhủ những người cha,
những người mẹ trong gia đình, hãy tập cho con cái thói quen lần chuỗi, và ngay
cả chúng ta nữa, chúng ta vẫn lần chuỗi mỗi ngày. Năm 1951, trong một thông
điệp, ngài đã tha thiết hêu gọi những người công giáo hãy lần chuỗi gấp đôi
trong tháng này để cầu xin những ơn lành cho Giáo Hội và cho nhân loại. Chính
ngài khi đã 80 tuổi, mặc dù bận rộn nhiều công việc nhưng ngài đều lần chuỗi
trước khi đi ngủ. Rồi gần đây, Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Đức Thánh Cha Phaolô
VI và Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II cũng đều đề cao giá trị của kinh Mân Côi và
khuyên nhủ chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi.
Để kết luận tôi xin kể lại mẫu gương
của thầy Peyton. Thầy bị bệnh nặng, các bác sĩ đều chịu thua, tuy nhiên trong
âm thầm mẹ thầy đã xin được chết thay cho thầy. Lời cầu xin được Đức Mẹ nhận
lời, thầy được bình phục và được thụ phong linh mục. Mẹ chết. Dành trọn cuộc
sống để loan truyền sứ điệp Fatima và kinh Mân Côi.
Với
chúng ta cũng vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân Côi sốt sắng, để xin Mẹ
nâng đỡ phù trợ cho bản thân chúng ta, gia đình chúng ta luôn mãi.
3.
Xin Vâng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Bài
Tin Mừng hôm nay kết thúc bằng hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ. Hai tiếng “Xin
vâng” thật đơn sơ nhỏ bé, nhưng lại có ảnh hưởng lớn lao.
Trước
hết hai tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới chương trình của Thiên Chúa.
Thiên
Chúa có chương trình tốt đẹp cho loài người. Nhưng để chương trình ấy thành
công, cần có sự tham gia, đồng thuận, vâng phục của con người. Chúa muốn con
người được hạnh phúc. Nhưng nếu con người từ chối, Thiên Chúa không thể ban
hạnh phúc cho con người. Chương trình đầu tiên của Chúa đã thất bại vì ông bà
nguyên tổ không vâng lời Chúa. Ông bà nguyên tổ đã nghe ma quỷ hơn nghe Chúa.
Ông bà nguyên tổ đã làm theo ý riêng hơn làm theo ý Chúa. Trái lại Đức Mẹ đã
tham gia, đã đồng ý, đã vâng phục, nên chương trình của Thiên Chúa được thực hiện.
Kế hoạch cứu độ loài người của Thiên Chúa nhờ hai tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ
mà thành công.
Hai
tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ vọng lại hai tiếng “Xin vâng” của Ngôi Hai Thiên
Chúa.
Vì
vâng lời Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã vui lòng xuống thế làm người. Hôm nay, khi
Đức Mẹ nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Giêsu cũng nói “Xin vâng” với
Đức Chúa Cha. Với hai tiếng “Xin vâng”, Đức Mẹ khai thông chương trình cứu
chuộc của Thiên Chúa. Sau hai tiếng “Xin vâng”, Ngôi Hai xuống thế làm người,
tượng thai trong lòng Đức Mẹ.
Hai
tiếng “Xin vâng” có ảnh hưởng tới cả cuộc đời.
Hai
tiếng “Xin vâng” nghe thật bé nhỏ, khiêm tốn, những ảnh hưởng tới cả cuộc đời
Đức Giêsu và Đức Mẹ. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức Giêsu đã từ trời xuống thế,
như lời Thánh vịnh: “Máu chiên bò, Chúa không ưng. Của lễ toàn thiêu, Chúa
không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Cha”. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha, Đức
Giêsu đã chấp nhận con đường bé nhỏ, khiêm nhường. Vì vâng lệnh Đức Chúa Cha,
Đức Giêsu vui lòng chịu chết, chết nhục nhã trên cây Thánh giá: “Lạy Cha, nếu
có thể được, xin cho Con khỏi uống chén này. Những xin đừng làm theo ý Con, chỉ
xin vâng ý Cha mà thôi”.
Cũng
vậy, khi nói tiếng “Xin vâng” với Thiên thần, Đức Mẹ ràng buộc tất cả đời mình
vào chương trình của Thiên Chúa. Vì xin vâng mà phải sinh con trong hang đá
nghèo nàn. Vì xin vâng mà phải trốn chạy sang Ai cập. Vì xin vâng mà chấp nhận
lời tiên tri Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim bà”. Vì xin vâng mà theo
Đức Giêsu trên khắp các nẻo đường truyền giáo. Vì xin vâng mà phải đứng dưới
chân thập giá, chịu mọi đau đớn, khổ nhục với con, dường như cùng chết với con
vậy.
Như
thế, để nói tiếng “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và Đức Mẹ đã phải nói
“Không” với chính mình. Để một lần nói “Xin vâng” với Thiên Chúa, Đức Giêsu và
Đức Mẹ phải nhiều lần nói “Không” với chính mình. Tiếng “Vâng” lớn thành hình
nhờ những tiếng “Không” nhỏ bé. Ý Chúa được thể hiện nhờ biết bỏ ý riêng.
Chương trình lớn thành công nhờ những hy sinh bé nhỏ âm thầm.
Khi
tạo dựng nên ta, Chúa đã có chương trình cho mỗi người chúng ta. Đó chính là
chương trình tốt đẹp nhất. Nhưng nếu ta không cộng tác, thì chương trình ấy
không thực hiện được. Để chương trình của Chúa được thực hiện, ta hãy noi gương
Đức Mẹ, nói tiếng “Xin vâng” với Chúa. Hãy biết bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa.
Hãy biết bỏ chương trình riêng để đi vào chương trình của Chúa. Hãy xin vâng
khi vui. Hãy xin vâng khi buồn.Hãy xin vâng khi hạnh phúc. Hãy xin vâng khi đau
khổ. Hãy noi gương Đức Mẹ, xin vâng trong ngày truyền tin vui tươi, và xin vâng
cả khi đứng dưới chân thập giá đau buồn. Xin Vâng từng giây phút trong cuộc
đời. Khi chương trình của Chúa được thực hiện, ta sẽ được hạnh phúc và đem hạnh
phúc cho những người chung quanh ta.
Lạy
Mẹ, xin dạy con hai tiếng XIN VÂNG như Mẹ. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.
Hai
tiếng “Xin vâng” của Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến chương trình của Thiên
Chúa?
2.
Hai
tiếng “Xin vâng” Đức Mẹ có ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của Đức Mẹ.
3.
Chúa
Giêsu đã sống lời “Xin vâng” thế nào?
4.
Ta
phải làm gì để chương trình của Chúa nơi ta được thực hiện”
4.
Lễ Mẹ Mân Côi.
"Hỡi
Maria, xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và
sinh hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời
gian viên mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã
được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta
tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời
chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua
lời chào và mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời
giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi
biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo
hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy
chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ
là Đấng Đầy Ơn Phước",
vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như
được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển
chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng
sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy
tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời
Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được
sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời
hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa,
như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài
đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên
Chúa ở cùng Bà".
Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu
rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng
nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel:
Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp
với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân
loại.
"Hỡi
Maria đừng sợ".
Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con
người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết
giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám
nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì
thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run
sợ thánh.
Kinh
nghiệm sống đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria:
"Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã
phó thác tin tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm
vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em
xung quanh.
Lạy
Cha là Chúa trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những
mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho
những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu
rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức
Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện
của Người và tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy
Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh
nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên
Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được
điều này như Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái
Thiên Chúa.
Xin
Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có
Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
5.
Bài học quan trọng của kinh Mân Côi.
(Suy niệm của Lm.
Ignatio Trần Ngà – Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Mọi
tội lỗi của loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời
Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và E-và đã không vâng
lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn
địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu
về sau.
Sự
bất tuân nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu
đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực
sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên
Chúa, mà muôn người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vì
thế, muốn cứu chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì
phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa
Giê-su chính là "đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người
duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (là Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng
chuổi mân côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót
Chúa Giê-su và Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giê-su và Mẹ
Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc muôn đời.
*
Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà
E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền
dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức
Maria là E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống
vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời
vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù
được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự
coi mình là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa
truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi
đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là
bài học vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự
vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa,
nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội
dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là
nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
*
Theo gương vâng phục của Chúa Giê-su
Song
song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của
Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thương.
Trong
Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những
giọt máu rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Cha:
"Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự
thương)
Kế
đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm
sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh
ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau
đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại
còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa
Giê-su vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà
làm theo ý Cha".
Dù
đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước
lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống
nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã
định: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù
phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai
tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su
vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm.(Luca 23,
34)
Sự
vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã
cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ
hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên
Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh
hiệu..." (Philíp 2, 9)
Thế
là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu
độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật
vậy, cũng như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời
Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rôma 5, 19)
Như
thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa
Giê-su và Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giê-su và
Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào
chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa Giê-su dạy: "Không phải bất cứ ai thưa
với Thầy: "Lạy Chúa! lạy Chúa! " là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng
chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi"
(Mt 7,21).
6.
Đức Chúa Ở Cùng Bà – Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy Niệm
Con
người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta
lắng xuống, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây
là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã
đến.
·
Mẹ
đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ
ngay từ lúc chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
·
Mẹ
được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên
tội.
·
Chúng
ta được dự phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa
tuyển chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong
Cựu Ước, có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ
Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
-
Khi
được đầy tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền
Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
-
Nhiều
lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
-
Kitô
hữu là người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó
là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ
Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
-
Nhưng
sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài
nói với Mẹ (Lc 1, 45).
-
Tin
là dám buông đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng
tin.
-
Mọi
tín hữu đều được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung
hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ
Thiên Chúa là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
-
Mẹ
được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức
Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
-
Chúng
ta chẳng được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm
mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem
ra thực hành" (Lc 8,21).
-
Khi
thực thi Lời Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm
nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
-
Chẳng
có gì Đức Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không
được dự phần.
Xin
Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bạn
có khi nào lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi
là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
·
Bạn
nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là
Đấng rất gần bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào
chúng con cũng thấy Mẹ lên đường. Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức
Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi
dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng
Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước
mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên
Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến
gặp gỡ Thiên Chúa.
7.
Mẹ Đầy Ơn Phước – R. Veritas.
(Trích trong
‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’)
Thời
gian viên mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước
kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là
Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến
tên Ngài. Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính
mừng Maria, hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa
mời gọi Maria hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ
Maria không vui lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời
hứa, để làm dấu chỉ loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào
chúc Mẹ Maria qua kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng
ta tham dự vào niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ
là Đấng đầy ơn phước,
Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức
Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là
tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng
sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn
niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên
Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như
là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho
Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa,
như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa,
Ngài
là Đấng trung tín như lời đã hứa
Abraham
và con cháu ông".
"Thiên
Chúa ở cùng Bà",
Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp
đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa.
"Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến,
đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng
ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là
Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên
Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi
Maria, đừng sợ",
kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con
người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn
được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao
giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý
định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run
sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm
tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng
vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin
Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ
để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc
biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên
Chúa Cha:
"Lạy
Cha là Chúa tể trời đất,
Chúng
con chúc tụng Cha
Vì
Cha đã không mạc khải
cho
những kẻ khôn ngoan kiêu ngạo
Nhưng
cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn
Cha
đã chọn Mẹ Mari
để
thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con,
Nhờ
lời cầu khẩn của Mẹ Maria
Đặc
biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay
Và
nhân danh Chúa Giêsu Kitô,
Đấng
Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con".
Xin
cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở
với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ
đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng
Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này
như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu
cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và
đặc biệt trong chính chúng con.
8.
Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu.
(Trích trong ‘Từng
Bước Một Thôi’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày
16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc
cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria
và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.
Sau
hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư
“Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở
thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn
sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như
có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế
đỉnh cao và trung tâm.
Vâng,
Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và
phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1)
Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành
rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như
được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca
nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ.
Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc
một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không
mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một
cung bậc diệu kỳ.
Phần
đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp
với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa
Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin
ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả
hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh
kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế
là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu
“nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào
trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu
ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa
Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay
không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm
tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2)
Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật
vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm
lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống
Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề
nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân
Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để
có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy
tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến
hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình
sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất
nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc
Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách
của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn
đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ;
và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo
phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng”
đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
“Ad
Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa
suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể
của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính
Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa
Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa
Giêsu.
3)
Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi
nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn
mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức
và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày
xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám
sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại
Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại
ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh,
mến Chúa, yêu người”.
Nếu
nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ
tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người
tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua
Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một
nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng
người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên
thánh.
Những
nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành,
những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là
những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay
đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo
sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi”
(hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo
định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào
mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm
lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính
là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước
đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm
khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn,
để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng
đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
9.
Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng.
(Trích trong ‘Với cả
tâm tình’ – ĐGM. Vũ Duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận
chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức
Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công
Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương
yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante,
với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ
đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày
nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá
cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không
phải là mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là
bình tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa
qua Kinh Mân Côi.
1)
Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
“Kính
mừng Maria đầy ơn phúc”. Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu
của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương
chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan
trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi
lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý
Chúa. Phần chìm ấy là tiếng “Xin Vâng”.
“Xin
Vâng” là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng
nói muôn thuở của Thiên Chúa. “Xin Vâng” là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất
thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để
đánh đổi. “Xin Vâng” là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một
lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu
chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm
của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. “Xin
Vâng” là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi tớ,
nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức làm
Mẹ Thiên Chúa.
Rõ
ràng tiếng “Xin Vâng” đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó
là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở
nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì
thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh “Kính mừng Maria đầy ơn phúc”, thì hãy vui mừng
thêm nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria,
nhưng chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng “Xin Vâng”, để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ
chiến thắng trên chính phận mình.
2)
Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
“Thánh
Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội”. Phần sau của Kinh
Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là
một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên
chính phận mình để trở nên “Đức Mẹ Chúa Trời”, thì phần sau là lời kính mừng
Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh
đức. Do đó, danh hiệu “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời” chính là lời kính mừng
trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng
chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng
chiến thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc
đời dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ.
Vì thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng
nghĩ về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối
tương quan “Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội” một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên
kia lời “cầu cho chúng con là kẻ có tội” là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là
Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo
Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận
mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin “Thánh Maria”, và nếu ngước trông lên Mẹ
thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín
nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ
đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu
bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3)
Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác
vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một
phần nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí
Đức Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh
Mân Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng
lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là
mừng về một chiến thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức
Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn
thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo
tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho
Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội
chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở
thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao
khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và
mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai
danh hiệu “Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng”, để thấy được rằng muốn có chiến thắng
không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày
bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn
đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội
lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm
ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa
vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong
Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn
đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của
mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối
cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi
là “đất Đức Bà”, đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp,
thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi đó là đài
Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến Thắng:
thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy
Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
10.
Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần.
THÁNG MÂN
CÔI: NHỚ LỜI ĐỨC MẸ NHẮN NHỦ
Thế
giới đang đi vào một hoàn cảnh nghiêm trọng. Nghiêm trọng nhất là bệnh tình của
tâm hồn con người: Lỗi lầm cá nhân tăng. Tội ác tập thể tăng. Suy thoái đạo đức
tăng. Người ta huỷ hoại nhau và tự huỷ. Nhiều nơi đang rơi vào nguy cơ tan rã.
Quỉ ác xem ra đã thiết lập được một trật tự tội lỗi vững chắc trong thế giới,
kể cả những vùng cực kỳ hữu thần.
Tình
hình này đang bùng nổ ra những bất ngờ bi đát. Chúng ta khó tránh được những
ảnh hưởng đa dạng của các chuyển biến bi thảm.
Những
thời sự gay gắt đang khiến những ai thao thức với sự sống con người và Nước
Trời phải băn khoăn. Họ nhớ lại những gì Đức Mẹ Maria đã cảnh báo tại Lộ Đức,
tại La Salette, tại Fatima.
Đức
Mẹ báo trước những tai hoạ khủng khiếp sẽ xảy ra do tội lỗi chồng chất của thế
giới gây nên. Để làm nhẹ đi những tai hoạ này, Đức Mẹ nhắn bảo các con cái Mẹ
hai điều: Một là hãy cầu nguyện,
Hai
là hãy ăn năn sám hối.
Dưới
đây, tôi xin phép góp ý sơ qua về sự thực hiện hai điều trên đây.
Cầu nguyện.
Nhìn
qua thế giới xung quanh, tôi thấy có những người không hề cầu nguyện, có những
người không thích cầu nguyện, có những người rất ít cầu nguyện, có những người
không biết cầu nguyện. Bốn hiện tượng này đã khá phổ biến.
Vì
thế, khi cầu nguyện, thiết tưởng nên khởi sự từ việc xin Chúa ban cho ta ơn cầu
nguyện. Kinh nghiệm bản thân cho tôi thấy: Cho dù tuổi nào, bậc nào, con người
ta vẫn cảm thấy ứng nghiệm lời thánh Phaolô viết: “Có Thánh Thần giúp đỡ chúng
ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải.
Nhưng chính Thánh Thần cầu thay nguyện giúp chúng ta bằng những rên xiết khôn
tả. Và Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can, biết Thánh Thần muốn nói gì, vì
Thánh Thần cầu thay nguyện giúp cho các thánh đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).
Thực
vậy, rất nhiều khi chúng ta cầu nguyện không đúng ý Thiên Chúa. Rất nhiều khi
chúng ta cầu xin Chúa làm theo ý chúng ta, chứ chúng ta không sẵn sàng vâng
theo ý Chúa. Hoặc là cầu xin một cách phô trương, kiêu hãnh kiểu Pharisêu, chứ
không với cách khiêm nhường kín đáo như người thu thuế.
Kinh
nghiệm cũng cho thấy: Biết bao lần cả trong chính khi đọc kinh, dâng lễ, chúng
ta cũng có thể sa vào những tư tưởng, lời nói, việc làm sai trái, mà thánh
Phaolô đã than: “Sự lành tôi muốn, thì tôi không làm. Còn sự xấu tôi không
muốn, thì tôi lại làm” (Rm 7,20). Hiện tượng cầu nguyện với sự nguội lạnh, khô
khan, với những tâm tình ghen ghét hận thù, gian dối, tham lam, kiêu căng, tự
phụ tự đắc là hiện tượng không phải hiếm hoi gì.
Những
việc cầu nguyện như thế chắc chắn không đáp ứng lời nhắn nhủ của Đức Mẹ. Hãy
xin ơn biết cầu nguyện với Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện theo cách lần chuỗi
mân coi như ý Đức Mẹ. Hãy tập cầu nguyện trong thân phận khiêm tốn của người
tội lỗi van nài lòng thương xót Chúa tha tội và giúp chúng ta khỏi sa vào bẫy
ma quỉ. Hãy cầu nguyện để chúng ta nên giống hình ảnh Thiên Chúa tình yêu.
Ăn năn sám hối.
Chúa
đã thương yêu ta từng chi tiết nhỏ. Như thánh vương David nói: “Tạ ơn Chúa đã
thương con cách lạ lùng. Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ
mười mươi. Xương cốt con Ngài không lạ lẫm gì. Khi con được thành hình trong
nơi bí ẩn. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy. Mọi ngày đời được dành sẵn
cho con, đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu đời của con khởi
sự” (Tv 139,14-16).
Chúa
thương ta và muốn ta phát triển theo hướng tốt lành Chúa muốn. Nhưng thực tế
cho thấy nhiều khi ta phát triển sai hướng. Tiên tri Baruc nói: “Chúng tôi đã
không nghe tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, đã không tuân giữ mọi lời
các ngôn sứ Người đã sai đến với chúng tôi. Mỗi người chúng tôi đã cứ theo lòng
dạ xấu xa ngoan cố của mình mà phục vụ các thần khác, và làm điều dữ trước mặt
Đức Chúa là Thiên Chúa chúng tôi” (Br 1,21-22).
Các
thần tượng mà nhiều người chúng ta thường đi tìm, chạy theo và tôn thờ là danh
vọng, tiền của, thành công, lạc thú, biếng lười. Thần lớn nhất là cái tôi.
Khi
Đức Mẹ khuyên nhủ chúng ta ăn năn sám hối, Đức Mẹ muốn chúng ta khởi sự bằng
việc đốt nóng lên niềm tin. Tin là gắn bó thân mật với Chúa. Ngài là khởi đầu,
là cùng đích và là hạnh phúc của ta. Tin là chấp nhận Lời Chúa là chân lý. Tin
là sống theo thánh ý Chúa. Tin là thực thi điều răn: Mến Chúa yêu người.
Với
niềm tin như thế, người sám hối cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn đổi mới. Khi
được ơn Chúa Thánh Thần, họ sẽ nhìn thấy rõ hơn những tai hại của tội lỗi, họ
sẽ hối hận vì đã xa lìa Chúa. Quyết tâm của họ sẽ không dừng lại ở sự gỡ bỏ
khỏi tội lỗi, mà còn ước muốn được sống trong’ tình yêu Chúa. Hơn nữa, họ muốn
đi theo Chúa, dấn thân cứu đời.
Dấn
thân đòi phải có tinh thần chiến đấu. Trong chiến đấu để làm chứng cho Thiên
Chúa tình yêu, nhiều khi tôi có cảm tưởng là phải rất can đảm. Nhưng kinh
nghiệm cho tôi thấy ơn biết sống dịu dàng, nhân hậu, tế nhị, khiêm tốn và
thương cảm còn cần hơn.
Ăn
năn sám hối cũng còn đòi tinh thần đền tội. Tinh thần đền tội đi theo tinh thần
đức tin và xuất phát từ tinh thần đức tin.
Chúng
ta tin chắc rằng: “Không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa trước, nhưng chính
Người đã yêu thương chúng ta trước, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội
cho chúng ta” (1Ga 4,10).
Nếu
chính Đức Kitô đã dâng mình chịu nạn để làm của lễ đền tội cho chúng ta, thì
không lẽ chúng ta lại được phép dửng dưng với việc đền tội của chính chúng ta.
Hiện
nay, việc đền tội được hiểu một cách qúa sơ sài và được thực hiện một cách quá
tượng trưng. Tôi thiết nghĩ thói quen đó là không đúng. Chúa Giêsu có lần đã
phán: “Giống quỉ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện” (Mt
17,21). Lời Chúa dạy trên đây rất có thể áp dụng vào việc đền tội, khi việc đền
tội vừa là sửa chữa lại lỗi lầm đã qua, vừa ngăn ngừa ma quỉ trở lại tái chiếm
con người sám hối.
Với
vài gợi ý trên đây, tôi tin rằng rất nhiều con cái Đức Mẹ khắp nơi sẽ nhìn lên
Đức Mẹ. họ sẽ sốt sắng cầu nguyện và sám hối. Chắc chắn Đức Mẹ nhân lành sẽ cầu
bầu cho nhân loại đáng thương này.
11.
Tôi là nữ tỳ của Chúa.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Nhân
vật chủ yếu mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính
Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng
Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người,
nên đã chuẩn bị cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa
đặc biệt mến thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức
Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ
tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn
trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước
khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống
trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn
đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời
mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng
tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và
sinh con. Nếu Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông
Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse,
và tương quan giữa cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria
không hiểu hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối.
Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì
xác tín rằng chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin
yêu phó thác. Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời
người nữ tỳ của Chúa.
Lắm
khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề
có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa
mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến
lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng
xin vâng khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những
lời thiên thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh
hiện ra với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và
rực rỡ ý nghĩa.
Chúng
ta có dám liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
-
Thiên
Chúa đã nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn
và mời bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua
một người hay một biến cố trong cuộc sống không?
-
Để
xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ
dựa nơi người đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy
Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ
đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con
trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức
Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ
lên đường để đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong,
từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng
con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng
phải con đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin
Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi
mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi
trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm
nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
12.
Kinh Mân Côi.
LỜI KINH CỦA QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC
Trong
một vài phút ngắn ngủi này tôi muốn trình bày về ảnh hưởng của kinh Mân côi đối
với quê hương đất nước.Trước hết tôi xin đưa ra một vài biến cố lịch sư.
Biến
cố thứ nhất đó là cuộc chiến thắng tại Lépante.
Vào
năm 1571 dưới thời Đức Thánh Cha Piô V, vua Sélim nước Thổ nhĩ kỳ đem quân thôn
tính Âu châu, trước tai họa thảm khốc này, Đức Thánh Cha một mặt liên kết các
quốc gia Âu châu, một mặt kêu gọi mọi người ăn chay cầu nguyện và nhất là lần
hạt Mân côi.
Chính
nhờ kinh Mân côi, đoàn quân ô hợp của các nước công giáo đã chiến thắng đoàn
quân tinh nhuệ của Thổ nhĩ kỳ tại Lépante.
Và
để tạ ơn Mẹ Maria, Đức Thánh Cha đã thiết lập ngày lễ Mân côi hôm nay.
Biến
cố thứ hai là trường hợp của Bồ Đào Nha.
Bồ
Đào Nha là một quốc gia đạo đức và sùng kính Đức Mẹ. Thế nhưng đã rơi vào tay
bọn Tam điểm từ năm 1910.
Trong
suốt 16 năm nắm chính quyền, họ đã gây nên biết bao cảnh xáo trộn lầm than. Nào
là giết chết các linh mục tu sĩ., phá hủy các dòng tu, cướp bóc các cơ sở từ
thiện của Giáo hội.
Cũng
trong thời gian ấy đã xảy ra tất cả 16 lần đảo chánh, 45 lần thay đổi chính phủ
và tiền nợ nước ngoài lên tới hai tỷ mỷ kim.
Thế
nhưng, vào năm 1917, Đức mẹ đã hiện ra tại Fatima và đã hứa với ba em nhỏ:
- Bồ Đào Nha
sẽ giữ vững được đức tin.
Và
sự thật đã xảy ra như thế. Dân công giáo Bồ Đào Nha đã vùng lên, đập tan xiềng
xích của bọn Tam điểm, lòng đạo đức được phục hồi và ngày 12. 6. 1925 chính phủ
và toàn thể nhân dân Bồ Đào Nha đã long trọng dâng kính đất nước mình cho Mẹ
Fatima.
Sau
cùng là trường hợp của Tây Ban Nha.
Cũng
vậy, Tây Ban Nha là một quốc gia đạo đức nhưng đã bị rơi vào tay những kẻ chống
đối tôn giáo. Dưới sự hướng dẫn của tướng Franco một mặt trận giải phóng được
thành lập và mãi tới năm1939 mới lật đổ được chính quyền.
Ông
đã tiết lộ như sau:
-
Chúng
ta đã nắm được những tài liệu của kẻ thù cho hay: họ định triệt hạ các thánh
đường, biến đất nước chúng ta trở thành một quốc gia không còn tôn thờ Thiên
Chúa nữa.
Qua
những sự kiện lịch sử ấy, chúng ta thấy Mẹ Maria luôn sẵn sàng can thiệp để
giúp đỡ mỗi khi chúng ta gặp phải khó khăn và thử thách. Phương thế mẹ muốn
chúng ta sử dụng đó là kinh Mân côi, như lời mẹ tỏ lộ tại Fatima:
-
Thế
chiến lần thứ nhất sắp kết thúc, nhưng nếu người ta không lo cải thiện đời
sống, tôn sùng trái tim Mẹ và lần hạt Mân côi thì rồi chiến tranh sẽ lại bùng
nổ một cách tàn khốc hơn.
Nhìn
vào thế giới hôm nay, chúng ta không khỏi bi quan khi nhận thấy rằng:
-
Bất
công và bạo động, hận thù và đàn áp đang xảy ra khắp nơi, những chiếc ngòi của
một cuộc chiến tranh thảm khốc vẫn sẵn sàng bùng nổ. Rồi nghèo đói, bệnh tật và
những tệ nạn xã hội luôn liên tục phát triển, không một phần đất nào mà lại
không có.
Riêng
tại Việt Nam, mặc dù hòa bình đã trở về trên quê hương chúng ta gần ba chục năm
rồi, thế nhưng vẫn còn biết bao nhiêu khó khăn cần phải tháo gỡ, biết bao nhiêu
vấn đề cần phải giải quyết nhất là về phương diện kinh tế và đạo đức.
Chiến
tranh như một cơn ác mộng đã qua đi, nhưng hậu quả đắng cay và nghiệt ngã của
nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Bởi đó, là người dân Việt Nam, chúng
ta phải cố gắng góp phần vào việc phát triển đất nước bằng chính công sức lao
động sản xuất của mình.
Tuy
nhiên, là người tín hữu, chúng ta còn có những phương thế siêu nhiên. Và một
trong những phương thế siêu nhiên đó là sự cầu nguyện. Đồng thời, một trong
những cách thức cầu nguyện đắc lực và hiệu nghiệm hơn hết, đó chính là kinh Mân
côi. Bởi vậy, hãy dâng lên Mẹ những lời kinh Mân côi sốt sắng để xin mẹ nâng đỡ
và phù trợ cho đất nước Việt Nam, quê hương yêu dấu của chúng ta.
13.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
“Hãy
xin thì sẽ được”
Hôm
nay Giáo Hội mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi. Đây là một dịp để chúng ta suy niệm về Đức
Mẹ và về việc đạo đức rất phổ thông là việc lần chuỗi dâng kính Đức Mẹ.
Nhiều
người trong chúng ta có một tràng chuỗi. Tràng chuỗi chúng ta không giống chàng
chuỗi các nhà sư. Tràng chuỗi chúng ta có một lai lịch cổ xưa và nòi được là
thi vị hơn nhiều.
Vào
thời Trung cổ, trong các nước Công giáo Tây phương, người thanh niên, nhất là
các thiếu nữ, có thói quen mang những tràng hoa trên đầu mà người ta gọi là
Chapel- nguồn gốc trong Pháp ngữ của danh từ chapeau là mũ và chapelet là tràng
chuỗi.
Thánh
Louis, vua nước Pháp, cấm các con, nhất là các nàng công chúa, không được mang
tràng hoa trên đầu trong các ngày thứ sáu, để tưởng niệm đến mũ gai mà Chúa đội
trong cuộc tử nạn.
Tràng
hoa biến thành các chuỗi hoa, đội lên đầu Đức Mẹ để tỏ lòng tôn kính. Trong khi
đó, ở tu viện, các Tu sĩ mỗi ngày đọc đủ 150 kinh dâng kính Đức Mẹ. Tràng chuỗi
trở nên tràng chuỗi Mân Côi.
Việc
đạo đức ấy đã được Đức Mẹ chấp nhận, khi Người hiện ra với Thánh ĐaMinh vào thế
kỷ XIII. thời ấy, bè rối Albigeois đã lan tràn nhiều nơi và phá hoại Giáo Hội
rất nhiều. Thánh Đaminh và Dòng của Ngài đã làm hết sức mà không sao cải hóa
được những người theo bè rối ấy. Ngài cầu nguyện với Đức Mẹ và Đức Mẹ đã hiện
ra dạy dùng tràng chuỗi Mân Côi làm khí giới thần hiệu để chinh phục bè rối ấy.
Thánh Đaminh đã thành công nhờ tràng hạt Mân Côi.
Lễ
Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử
Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa
sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một chuồng ngựa. Đạo binh Công giáo đã ra
nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức
Mẹ. Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão
của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức
Mẹ Mân Côi.
Lần
chuỗi không phải là việc đọc kinh một cách máy móc các kinh thường quen, mà là
miệng đọc mà lòng suy gẫm các mầu nhiệm căn bản của Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Mầu
nhiệm năm sự VUI để sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa; mầu nhiệm năm
sự THƯƠNG để theo Chúa trên đường tử nạn; mầu nhiệm nhiệm năm sư MỪNG để cùng
Đức Mẹ sống qua những ngày cuối cùng của Chúa.
Vì
thế mà Lacordaire đã gọi tràng chuỗi Mân Côi là một cuốn Phúc Âm tóm lược.
Vậy
chúng ta hãy siêng năng lần hạt, vì chính Đức Mẹ cũng khuyến khích việc ấy
trong những lần hiện ra ở Rue du Bac, Balê, ở lộ Đức và Fatima.
Tại
rue du Bac ở Balê, Đức Mẹ nói cùng Thánh nữ Catherine Labouret: con hãy quan
tâm đến việc lần chuỗi để tôn kính Đức Mẹ.
Tại
Lộ Đức, trong 18 lần hiện ra với Bernadetta, Đức Mẹ bao giờ cũng lần hạt và
khuyên lần hạt. Mỗi lần ra hang đá, Benrnadetta đến quì tại một chỗ nhất định.
Cô nhìn lên hang đá, rút tràng chuỗi ra lần. Thế là trên bộng đá rực lên một
bầu ánh sáng và trong một bầu ánh sáng ấy, Đức Mẹ hiện ra.
Đức
Mẹ cầm trong tay một tràng chuỗi bạc, hạt ngăn bằng vàng. Bernadetta nói: Đức
Mẹ cũng lần hạt nhưng tất nhiên không đọc kinh Kính Mừng mà chỉ cúi đầu, mấp
máy đóc kinh Sáng Danh kính Chúa Ba Ngôi.
Cách
riêng, tại Fatima trong 6 lần hiện ra, Đức Mẹ đã khuyến khích lần hạt. Đức Mẹ
dạy em Phanxicô phải lần hạt mới được về Thiên đàng. Đức Mẹ ban ba mệnh lệnh và
một trong ba mệnh lệnh ấy la phải siêng năng lần hạt. Và Đức Mẹ tự xưng là Nữ
Vương Mân Côi.
Tràng
chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Chúng ta hãy dùng khí
giới và thuẫn đỡ đó, để chống lại ma quỉ, nhất là để nhở Đức Mẹ đưa ta đến với
Chúa, ad Jesum per Mariam. Amen.
14.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Nói
về Mẹ Maria qua tràng chuỗi Mân Côi, nhân loại đang sống trong lòng tin sẽ
không bao giờ có thể phủ nhận được con đường Mẹ dậy mọi người đi với ba mầu
nhiệm: Nhập thể, Đau khổ và Phục sinh của Con duy nhất của Mẹ là Chúa Giêsu
Kitô luôn rõ nét, sáng ngời giữa mọi biến cố của lịch sử cứu độ. Mẹ Maria như
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã viết: "Vào bình minh của ngàn năm mới,
chúng ta vui mừng nhận thấy nổi bật lên 'chiều kích Thánh Mẫu' của Hội Thánh,
ấp ủ trong mình nội dung sâu thẩm nhất của việc canh tân do công đồng đề
xướng". Con cái của Mẹ theo sau Mẹ đi từng chặng đường của Con Mẹ đã đi
qua. Con đường ấy không đâu xa, đó là con đường: Vui, Thương, Mừng mà nhân loại
muốn đi vào nước trời không thể nào không bước qua những chặng đường ấy.
MẸ
MARIA TRONG LỊCH SỬ CỨU ĐỘ
Maria
được Thiên chúa tuyển chọn để làm Mẹ Đức Giêsu Kitô và làm Mẹ nhân loại. Lời
Xin Vâng của Mẹ đã làm đảo lộn cả lịch sử nhân loại, mặc cho nhân loại một ý
nghĩa mầu nhiệm, sâu xa. Nếu không có lời Xin Vâng của Mẹ, nhân loại đã khác
hẳn, nhân loại chẳng bao giờ có ngày hôm nay. Với tiếng Xin Vâng, Mẹ Maria đã
tận hiến và chấp nhận ý định của Thiên Chúa, hiến toàn thân mình cho Thiên
Chúa, để cùng với Ngài thực hiện chương trình cứu độ nhân loại. Mẹ Maria đã nắm
một vai trò thật đặc biệt và quan trọng trong lịch sử cứu rỗi. Sở dĩ Mẹ Maria
được Thiên Chúa trao cho một vai trò lớn lao, quan trọng như thế là vì Maria
được tràn đầy ân sủng,Thiên Chúa luôn ở cùng Mẹ. Thiên Chúa ở cùng, ở với Mẹ là
hạnh phúc lớn nhất, khiến Mẹ luôn đầy phước lộc chứa chan, nhờ đó Mẹ chiếu tỏa
ánh sáng và ân sủng cho mọi người. Maria là một người Mẹ, người Mẹ hoàn toàn
đúng nghĩa của nó, một người Mẹ đầy yêu thương, vì Mẹ có đầy hồng phúc. Mẹ
Maria là một người trong nhân loại, là một người nữ đúng nghĩa nhất, nhưng
Maria lại là một người nữ đặc biệt vì Maria làm đẹp lòng Thiên Chúa. Maria đặc
biệt hơn nữa vì tâm hồn đơn sơ, thánh thiện, tinh trong, sáng ngời của Mẹ.
Maria hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu Mẹ Thiên Chúa vì Mẹ đã chỉ cho nhân
loại phải bước theo những chặng đường con của Mẹ là Chúa Giêsu đã bước qua.
"CÁC
CON ĐỪNG SỢ, THẦY ĐÃ THẮNG THẾ GIAN"(Ga 16,33)
Chúa
Giêsu đã chết, Ngài đã sống lại, lên trời, ban Thánh Thần cho các môn đệ và trở
thành niềm cậy trông vững bền cho mọi người, Chúa hứa với các môn đệ và nhân
loại: " Sẽ ở cùng các con mọi ngày cho tới tận thế "(Ga 14,18). Chúa
là con của Mẹ Maria,nên Chúa phục sinh ở với nhân loại mãi mãi cho tới ngày
cùng tận trời đất, chắc chắn Mẹ cũng ở với nhân loại cho tới tận thế, vì lúc
nào Mẹ cũng mang Chúa trong lòng và giới thiệu Chúa cho nhân loại. Đức Giáo
hoàng Gioan Phaolô II đã viết: " Nếu có sự chiến thắng thì Mẹ Maria là
người chiến thắng". Mẹ đã hiện ra tại nhiều nơi như Lộ Đức, Fatima,
Labouret, Nam Tư, La Vang và nhiều nơi khác trên khắp thế giới. Nơi nào Mẹ cũng
khuyên nhủ:" phải ăn năn sám hối, và năng lần chuỗi Mân Côi ". Mẹ đã
luôn giữ lời hứa và Mẹ luôn muốn con của Mẹ tất cả được thừa hưởng nước trời.
Mẹ chiến thắng ma quỉ, sức mạnh của sự dữ. Mẹ chiến thắng tà thần."Trái
tim hiến tế của Mẹ đã thắng tội lỗi và những tối tăm của quyền lực ma quỉ, sự
dữ…"
LỄ
MÂN CÔI NÓI GÌ CHO NHÂN LOẠI
Lễ
mân côi làm cho dân Chúa hồi tưởng lại thời đạo binh thánh giá chiến thắng quân
Phổ ở Lê-pan vào năm 1571 nhờ sự can thiệp của Đức Trinh Nữ Maria.Tuy nhiên, đó
chỉ là lý do phụ. Điều cốt thiết của nhân loại là hiệp ý với Mẹ Maria, Nữ Vương
An Bình, cầu nguyện cho mọi người nhìn nhận ý Thiên Chúa và tuân theo ý Người.
Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra cho nhiều người ở nhiều nơi như Lộ Đức, Mẹ đã
hiện ra với thánh nữ Bernadette và tự giới thiệu ngài là Đấng Vô Nhiễm Nguyên
Tội. Tại Fatima, Mẹ đã hiện ra với ba trẻ là Lucia, Phanxicô và Jacintha. Trong
các lần hiện ra Mẹ đều khuyên các trẻ và nhân loại phải ăn năn sám hối, lần
chuỗi và sống trung thành với Chúa. Chắc chắn, mọi người ở muôn thời đều muốn
được hạnh phúc và vui vẻ để sống. Nhưng thái độ của ta đối với Thiên Chúa và tha
nhân như thế nào? Ta đã sám hối và cầu nguyện, lần chuỗi theo ý Mẹ đủ chưa? Nếu
chưa, ta cần thay đổi lối sống, lần chuỗi siêng năng hơn để cùng với Mẹ đi vào
các biến cố, các chặng đường của Chúa: Nhập Thể, Khổ Nạn và Phục Sinh. Ta đã
sống bác ái, yêu thương đủ chưa? Nếu chưa, ta cần sống tốt hơn và cố gắng đi
vào định luật của tình yêu: "Chúng con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu
thương các con".
Lễ
Mân Côi, một dịp để ta đi vào chương trình cứu rỗi của Chúa Giêsu và là một dịp
để chúng ta cố gắng thay đổi con người mới, kết hiệp với Mẹ và sống theo lời
khuyên của Mẹ: Sám hối, Cầu nguyện và Lần chuỗi. Chuỗi mân côi là phương thế dễ
dàng và hữu hiệu nhất để giúp ta sống trung thành với Đạo tình thương của Chúa
Giêsu. "Lạy Chúa,…xin đổ ơn thánh đầy lòng chúng con,để nhờ công ơn con
Chúa chịu khổ hình thập giá,và nhờ Thánh Mẫu Maria chuyển cầu,Chúa cũng cho
chúng con được sống lại hiển vinh" (Lời
nguyện nhập lễ, lễ Đức Mẹ Mân Côi).
15.
Suy niệm của ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần.
CẦU
NGUYỆN BẰNG CHUỖI MÂN CÔI
Trong
lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp
nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức
Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân
Côi.
Mân
côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một
vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch
sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những
gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng,
vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Chuỗi
Mân côi đốt lên lửa mến.
Lịch
sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người
được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập
Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính
Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một
số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain
de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các
vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ
của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền
bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của
nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong
trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong
hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong
trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin,
Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm
1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng
tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy
tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng
chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các
lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy
gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng
cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy
nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ
đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi
hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống
như Phật giáo, Hồi giáo. Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa
mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Chuỗi
Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.
Lịch
sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi
như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.
Năm
1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho
Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó
đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã
là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7
tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm
1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã
lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ
vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút
thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích
có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người
tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ
sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm
1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho
nhiều ân xá.
Năm
1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành
Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào "Kinh Mân côi sống". Cứ 10
nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính
Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này
cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính
Mừng.
Mỗi
tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về
truyền giáo.
Đầu
thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra
những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh
Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ
chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ
mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối
vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia
sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói
chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta
đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân
côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Chuỗi
Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.
Trước
đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức
Mẹ lên tiếng.
-
Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô,
Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta
hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.
-
Tại
Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương,
chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên
Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân
thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ
loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu
vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực
của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.
Các
ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy
tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc
nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ
trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý
nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: "Mẹ không hứa cho con hạnh
phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau". Tuy nhiên, ngay ở đời này, những
ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách
khác.
Hiện
nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta
tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong
nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng
một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: "Đối với Thiên
Chúa, không có gì là không thể làm được" (Lc 1,37).
16.
Kinh Mân Côi.
Vào
thế kỷ mười ba, bè rối Albigeois nổi lên ở miền nam nước Pháp, gây nhiều thiệt
hại cho Giáo hội. Và theo truyền thuyết, chính Đức Mẹ đã hiện ra và truyền dạy
thánh Đa Minh phép lần lật Mân côi, như là một phương thế tuyệt điêu để cảm hóa
bè rối. Và sự thật đã xảy ra đúng như thế. Chỉ sau một thời gian ngắn quảng bá
việc lần chuỗi Mân côi, thánh Đa Minh đã dẫn đưa được 150.000 người theo bè rối
trởvề cùng Giáo hội. Và đó chính là nguồn gốc của kinh Mân Côi.
Tiếp
đến, vào thế kỷ mười sáu, vua Thổ Nhĩ Kỳ đảm đạo quân Hồi giáo của mình xâm
chiếm Âu Châu. Sau khi lấy được đảo Chypre và Creta, ông ngang nhiên tuyên bố
sẽ cho ngựa ăn cỏ trong đền thờ thánh Phêrô. Trước sự tấn công như vũ bão, cũng
như trước áp lực nặng nề ấy, các nước Âu châu đã phải liên kết với nhau. Đồng
thời, Đức Giáo Hoàng đã truyền cho mọi người phải ăn chay, cầu nguyện và nhất
là lần chuỗi Mân côi. Sau cùng, đạo quân Công giáo đã dành được chiến thắng tại
vịnh Lépante. Để cám ơn Đức Mẹ và để kỷ niệm chiến thắng lịch sử này, Đức Thánh
Cha Piô V đã thiết lập lễ kính Mẹ Mân Côi hôm nay. Và đó chính là nguồn gốc của
lễ Mẹ Mân Côi.
Rồi
từ đó cho đến bây giờ, kinh Mân côi đã trở nên một việc đạo đức quen thuộc của
người Công giáo. Vậy tại sao chúng ta lại ưa thích kinh Mân côi? Phải chăng vì
cỗ tràng hạt vừa nho nhỏ lại vừa xinh xắn? Phải chăng vì kinh Kính mừng là một
lời kinh vùa dễ đọc, lại vừa dễ thuộc, để rồi chúng ta có thể lần chuỗi ở mọi
nơi và trong mọi lúc? Phải chăng vì tình cảm của chúng ta thường dễ hướng tới
người mẹ? Phải chăng qua dòng thời gian, Mẹ đã nhiều lần hiện ra khuyên nhủ
chúng ta hãy siêng năng lần hạt và hứa ban nhiều ơn lành qua việc đạo đức ấy?
Tất
cả những lý do trên đều đúng nhưng còn mang nặng tính chất tình cảm. Nếu suy
nghĩ, chúng ta sẽ thấy được ý nghĩa sâu xa và nội dung phong phú của kinh Mân
Côi, khiến chúng ta càng yêu thích việc lần hạt nhiều hơn nữa.
Thực
vậy, là một sáng kiến đạo đức được Mẹ đưa ra, nên chuỗi Mân côi có một hình
thức thật đơn sơ: một trăm năm mươi kinh Kính mừng, mười lăm kinh Lạy Cha và
mười lăm sự việc được xoay quanh mười lăm đề tài suy gẫm cụ thế và dễ hiểu.
Tuy
hình thức đơn sơ, nhưng chuỗi Mân côi lại có được một nội dung phong phú. Thực
vậy, kinh Lạy Cha và kinh Kính mừng là những kinh cao trọng nhất xuất phát từ
Tin mừng. Còn những mầu nhiệm suy gẫm là những biến cố được rút tỉa từ cuộc đời
của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Chính vì thế, chúng ta có thể gọi kinh Mân côi là
một cuốn Phúc âm được rút ngắn của người tín hữu.
Vậy
chuỗi Mân côi đem lại những hậu quả nào?
Cha
Lacordaire nói:
-
Con
đường bảo đảm nhất để về trời là con đường của các bà già, bởi vì các bà luôn
có cỗ tràng hạt trong tay.
Chính
Mẹ, khi hiện ra tại Phatima, cũng đã nói:
-
Phanxicô
sẽ được lên thiên đàng, nhưng phải lần hạt thật nhiều trước đã.
Nếu
chúng ta đọc và sống kinh Mân côi, thì kinh Mân côi sẽ là một bảo đảm cho phần
rỗi của chúng ta. Tuy nhiên, ngay từ bây giờ, kinh Mân côi còn đem lại cho
chúng ta nhiều an ủi và khích lệ, nhất là trong những giờ phút chúng ta gặp
phải khổ đau và buồn phiền.
Có một anh lính trở về từ thế giới ngục
tù đã cho biết như sau: Chính chuỗi Mân côi đã giúp anh ta cầu nguyện và thánh
hóa những khổ đau trong những tháng ngày đen tối ấy.
Rồi anh ta kể tiếp:
-
Khi bị thương và nằm lại trên chiến
trường, tôi đã lần hạt. Liền sau đó hai người bạn bên cạnh cũng muốn lần theo.
Thế là tôi dứt cỗ tràng hạt làm ba mẩu, mỗi người một mẫu để cùng nhau lần
chuỗi. Và mẫu chuỗi ấy, tôi vẫn còn lần nó cho đến bây giờ. Nó mãi mãi sẽ là
một kỷ vật thân thương nhất trong cuộc đời của tôi.
Hãy
dâng lên Mẹ những cánh hồng thiêng liêng, đó là những lời kinh Mân côi sốt sắng
để xin Mẹ nâng đỡ và phù trợ cho chúng ta luôn mãi.
CHÚA
NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: St
2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16
Bọn
Biệt phái hôm nay đưa vấn đề ly dị ra hỏi Chúa Giêsu, không phải là để có thêm
kiến thức hay tranh thủ ý kiến của Ngài, nhưng là để giăng bẫy gài Ngài. Một
cái bẫy không kém phần thâm độc. Họ chọn đúng lúc có đông đảo dân chúng tụ tập
xung quanh Chúa Giêsu để đòi buộc Ngài phải bày tỏ rõ lập trường. Uy tín của
Ngài sẽ tùy thuộc vào cách giải quyết của Ngài. Mà theo những người Biệt phái,
Chúa Giêsu sẽ không dễ gì thoát được cạm bẫy của họ. Nếu trả lời được phép, thì
Ngài sẽ đi ngược lại lề luật của Thiên Chúa. Còn nếu trả lời không được phép,
thì Ngài sẽ vi phạm điều Maisen qui định.
Thế
nhưng Chúa Giêsu đã vạch trần âm mưu của bọn Biệt phái bằng cách kéo họ về với
điều Thiên Chúa muốn người ta thực hiện. Chúa Giêsu đã gợi lại: Khởi đầu cuộc
sáng tạo con người, Thiên Chúa dựng nên người nữ, để làm vợ của người nam,
nghĩa là làm người bạn đường, bình đẳng với người nam…
Để
diễn tả ý tưởng này, Kinh Thánh cho thấy Thiên Chúa đã dựng nên người nữ, không
phải bằng bụi đất, mà bằng chính xương thịt của người nam. Và trong quan niệm
của người Do Thái, thì lồng ngực được cấu tạo bởi bộ xương sườn đó chính là
trung tâm của sự sống con người. Như thế, giữa người nam và người nữ, giữa
người vợ và người chồng, có một mối quan hệ mật thiết với nhau, quan hệ xương
máu, quan hệ cuộc sống. Và trong ý định của Thiên Chúa, nam và nữ, vợ và chồng
được tạo dựng để trở nên một huyết nhục. Do đó mà điều gì Thiên Chúa đã liên
kết, loài người không được phân ly. Nhưng trong thực tế, Maisen đã cho phép ly
dị. Theo Chúa Giêsu, thì việc làm của Maisen không có tính cách qui định về một
lý tưởng phải theo đuổi, mà chỉ là một nhượng bộ bởi sự cứng lòng của người Do
Thái. Thay vì thực hiện lý tưởng của khởi đầu cuộc sáng tạo, nghĩa là coi vợ
mình như một người bạn đường, như một phần của cuộc sống mình, thì người ta đã
coi vợ mình như là một phương tiện thỏa mãn những ước muốn ích kỷ, để rồi sẽ
dẫy bỏ khi không cần thiết.
Sự
ích kỷ đó đã phổ biến đến nỗi Maisen phải nhượng bộ, nhằm giải quyết sự yếu
đuối của con người cùng thời với ông, đồng thời nó còn phản ảnh cho một quan
niệm hôn nhân thời bấy giờ: Người vợ không được nhìn nhận là bình đẳng với
người chồng. Ngoài ra, có lẽ cũng nhằm sửa đổi cái nhìn của người ta về con
người trong xã hội, mà ở đây Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ thái độ phải có đối
với các trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ chính là mẫu mực cho những ai muốn vào nước Thiên
Chúa. Mẫu mực ở sự đơn sơ vô tội đã đành, mà còn mẫu mực ở thái độ sẵn sàng đón
nhận với tất cả sự chân thành.
Đoạn
Tin Mừng vừa nghe thường được xử dụng trong lễ cưới, và câu nói của Chúa Giêsu:
Sự gì Thiên Chúa liên kết, loài người không được phân ly, vốn được coi là nền
tảng cho sự bền vững của gia đình Công giáo. Thế nhưng chúng ta đừng vội hiểu
việc Thiên Chúa liên kết theo một ý nghĩa hoàn toàn pháp lý hay nghi lễ. Vợ
chồng kết hợp với nhau không phải bằng một nghi lễ, mà bằng chính sự tôn trọng
lẫn nhau, đặt mình trong kế hoạch tạo dựng của Thiên Chúa, bằng sự trở nên một
huyết nhục, qua hành động, qua tình cảm, qua cuộc sống thường ngày, qua sự chọn
lựa diễn ra trong từng giây từng phút.
Bởi
đó, hãy sống việc Thiên Chúa liên kết hơn là coi đó chỉ là một nghi lễ có tính
cách pháp lý mà thôi.
2.
Điều Thiên Chúa kết hợp.
Điều
Thiên Chúa đã kết hợp thì loài người không được phân ly.
Trong
một năm chúng ta cử hành rất nhiều lễ cưới, nhưng phụng vụ Chúa nhật thì hầu
như lại không đề cập tới hôn nhân. Một vài trường hợp ít ỏi như ngày hôm nay
chẳng hạn, vấn đề hôn nhân được đặt ra, không phải một cách trực tiếp, nhưng là
một cách gián tiếp. Tuy nhiên, qua phần Lời Chúa, chúng ta có thể rút ra một
vài kết luận về cuộc sống gia đình.
Trước
hết, với bài đọc I trích từ sách Sáng Thế Ký, chúng ta thấy: Con người, trong
bàn tay tạo dựng của Thiên Chúa, không phải chỉ là nam hay nữ, mà là nam và nữ.
Người nữ được dựng nên từ xương thịt của người nam. Cả hai cùng có một bản
chất, cùng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Có lẽ, không một tài liệu cổ xưa
nào có được một quan niệm vừa rõ ràng vừa thơ mộng về sự bình đẳng giữa người
nam và người nữ cho bằng câu chuyện của sách Sáng Thế Ký. Đồng thời, sự kết hợp
giữa người nam và người nữ, hay nói một cách cụ thể hơn, cuộc sống lứa đôi,
cuộc sống hôn nhân, cuộc sống gia đình không phải là một sự chúc dữ, không phải
một chuyện chẳng đặng đừng, mà là một sự thật xuất phát từ Thiên Chúa. Cuộc
sống ấy là khởi điểm cho sự hiện diện của con người trên mặt đất này: Người nam
sẽ lìa bỏ cha mẹ mà kết hợp với vợ mình và cả hai trở nên một thân thể. Đây là
một sự kết hợp có tính cách thánh thiện và thiêng liêng, bởi vì từ sự kết hợp
này mà nảy sinh những con người mới, có tự do, có hiểu biết, có yêu thương và
cũng mang lấy hình ảnh của Thiên Chúa. Như vậy hôn nhân chính là hành động cộng
tác và tiếp nối công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Rồi
qua đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu đã thẳng thắn gạt bỏ những dễ dãi do sự cứng lòng
của con người để trở về với ý định ban đầu của Thiên Chúa. Sự gắn bó giữa vợ
chồng để trở nên một là do Thiên Chúa thiết lập.
Tiếp
nối vào đó, thánh Phaolô còn xác quyết: Sự gắn bó ấy còn là hình ảnh tượng
trưng cho sự kết hợp giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Một sự kết hợp làm nên cuộc
sống mới. Bởi đó, sự gì Thiên Chúa đã liên kết, loài người không được phân ly
vì phá đổ sự kết hợp này chính là phá đổ công trình của Thiên Chúa, là bôi bác
hình ảnh của Thiên Chúa đã có đó trong cuộc sống hôn nhân. Không phải ngẫu
nhiên mà phép lạ đầu tiên của Chúa Giêsu, dấu chỉ về sự hiện diện của Nước Trời
giữa trần gian, lại đã được Ngài thực hiện trong một đám cưới.
Ngày
nay, gia đình tại nhiều nơi đang lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chồng
bỏ vợ và vợ bỏ chồng, con cái thì bơ vơ vất vưởng. Chính vì thế, chúng ta hãy
cầu xin Chúa củng cố nền tảng của gia đình bằng cách làm cho vợ chồng biết
trung thành và gắn bó với nhau trong suốt cuộc sống yêu thương của mình.
3.
Suy niệm của Guy Marin.
Những
người biệt phái hỏi Chúa Giêsu xem người ta có thể hủy bỏ mối liên hệ hôn nhân
không. Chúng ta biết câu trả lời rồi. Trước nỗi khó khăn mà giáo lý này đặt ra,
phản ứng đầu tiên của chúng ta là chúc dữ cho những kẻ đặt câu hỏi ấy. Khốn cho
các ngươi, hỡi những người biệt phái! Không hài lòng với việc làm cho Chúa
Giêsu phải lúng túng, các ông còn phá rầy chúng tôi, báo hại cả ngàn năm sau
nữa. Ước gì họ không bao giờ nêu lên câu hỏi này và Chúa Giêsu chẳng bao giờ
phải trả lời cả! Như vậy các nhà chức trách trong Giáo Hội sẽ có một khoảng
cách không gian để xoay sở và các Kitô hữu có một khoảng không gian để sống.
Chúng
ta có thể thực sự nghĩ như thế không? Chúng ta có thể nghiêm túc nghĩ như vậy
không, nếu chúng ta tin vào Lời Chúa? Chắc chắn là không. Chúng ta không có
quyền lựa chọn trong Tin Mừng những gì hợp với chúng ta hoặc tuyên bố rằng lời
này lời nọ không phải là lời của Tin Mừng. Thực ra tội ở địa đàng lại không
phải là khẳng định cái gì tốt hoặc xấu theo ý chúng ta chứ không theo ý Thiên
Chúa đó sao?
Có
được phép rẫy vợ không?
Vào
thời Chúa Giêsu, việc rẫy vợ thường được chấp nhận nơi người Do Thái. Người
chồng có quyền rẫy vợ và điều này bao giờ cũng cho phép người chồng được tái
giá. Người vợ không có quyền này. Những cuộc tranh cãi thường liên quan đến
những lý do khiến người chồng sử dùng quyền rẫy vợ: tùy theo trường phái đó có
thể là vì người vợ xấu nết hoặc làm cháy món ăn. Bởi vậy trong Phúc Âm thánh
Matthêu, câu hỏi gần với thực tại hơn: “Có được phép rẫy vợ vì bất cứ lý do nào
không?”.
Thánh
Marcô nêu lên ý xấu của những kẻ nêu câu hỏi, đó là “để làm cho Ngài lúng
túng”. Người ta đưa ra cho Chúa Giêsu một câu hỏi để gài bẫy Ngài, tương tự như
câu hỏi về việc trả thuế cho Xêda vậy. Trả lời câu hỏi ấy xem ra rất khó về
nhiều phương diện. Ngài phải tránh nói ngược với luật Môsê cho phép ly dị. Khó
khăn khác nữa: lúc bấy giờ Chúa Giêsu ở trên lãnh thổ của Hêrôđê, và ông này
vừa mới cho chém đầu Gioan Tẩy Giả vì đã trách ông về cuộc hôn nhân bất hợp
pháp của ông (6,17). Đây không phải là một địa điểm dễ dàng để nói sự thật. Và
Ngài có thể bị chống đối bởi những thính giả thuộc phái đàn ông kiên quyến bảo
vệ quyền được rẫy vợ. Phản ứng của các môn đệ cho thấy rõ điều này: “Nếu không
thể rẫy vợ được thì thà đừng cưới vợ còn hơn” (Mt 19,10). Khi trả lời, xem ra
Chúa Giêsu phải mạo hiểm lắm.
Chúa
Giêsu đề nghị một cái nhìn đức tin.
Trước
hết, Chúa Giêsu đưa ra cho mấy người Pharisiêu một câu hỏi về lệnh truyền của
Môsê và sau đó Ngài giải thích câu trả lời của họ: đây là một sự nhượng bộ.
Nhưng Ngài sẽ không để mình bị giam hãm trong một cuộc tranh cãi về những gì
được phép và không được phép. Ngài mời gọi các thính giả của Ngài hãy có cái
nhìn đức tin hướng về Thiên Chúa và về con người từ bản văn của sách Sáng Thế.
“Lúc ban đầu khi Thiên Chúa tạo nên nhân loại, Ngài đã làm ra cho họ có nam có
nữ…” Chúa Giêsu khẳng định rằng việc phân biệt phái tính không những là một sự
kiện tự nhiên nhưng còn là ý muốn của Thiên Chúa nữa. Giới tính không do bởi
ngẫu nhiên, cũng không do bởi sự trà trộn những giống loại sinh vật, nhưng do ý
muốn của Thiên Chúa. Ở đây ta thấy có giáo huấn về con người. Con người không
phải là một hòn đảo, nhưng là một hữu thể tương quan. Con người cần thiên nhiên
để có thức ăn, áo mặc. Tuy nhiên, nỗi cô đơn của họ vẫn không được lấp đầy; họ
cần một kẻ ngang hàng, với người này họ có thể chia sẻ mọi sự. Và Thiên Chúa
ban cho con người người phụ nữ. Để triển nở theo ý định của Thiên Chúa, con
người cần phải liên hệ với thiên nhiên, với tha nhân và đặc biệt là với một
người phối ngẫu.
Thánh
Kinh rút ra những hậu quả từ việc sáng tạo này. Khi người nam và người nữ rời
bỏ cha mẹ để gắn bó với nhau và trở thành một thân xác, thì họ tự do chấp nhận
làm theo điều Thiên Chúa muốn về họ. Quả thật, theo quan niệm Thánh Kinh, việc
sáng tạo vẫn còn tiếp tục chứ không phải chỉ là một tác động lúc ban đầu mà
thôi. Như vậy mối dây liên hệ vợ chồng không do bởi lề luật cũng không do bởi
sự lựa chọn của cha mẹ, nhưng do Thiên Chúa sáng tạo hành động trong sự ưng
thuận của đôi vợ chồng. Sự kết hợp này từ Thiên Chúa mà đến, vì vậy nên nó
không thể bị cắt đứt được.
Sứ
điệp không tưởng.
Nếu
cứ nhìn vào thực tại hiện nay: vô số những cuộc ly dị, ly thân, tái giá, không
kể những cặp nam nữ chung sống với nhau ngoài hôn nhân thì trong Tin Mừng này
lại chẳng là không tưởng ư? Nó không tưởng theo nghĩa là nó đề nghị một lý
tưởng mà các Kitô hữu được mời gọi theo đuổi phải triệt để cậy dựa vào Chúa
Thánh Thần, Đấng tạo nơi họ một quả tim mới.
Một
điều chắc chắn là các nhà chức trách của Giáo Hội cũng như dân Kitô không thể
chối bỏ một giáo huấn như thế được. Đàng khác, không ai được kết án những anh
chị em mà đã thất bại trong quan hệ hôn nhân. Chúng ta vừa buộc phải theo lý
tưởng được Chúa Giêsu đề nghị và buộc phải có tình thương huynh đệ đối với
những kẻ đã phạm lỗi. Trong cuộc thi Olympic, không phải tất cả các lực sĩ đều
lãnh huy chương, nhưng mục đích của hết thảy mọi người trong họ đều là đạt cho
được huy chương.
4.
Một tình yêu giống như tình yêu của Chúa Giêsu.
(Trích trong
‘Mở ra những kho tàng’ – Charles E. Miller)
Vào
ngày cưới, cô dâu và chú rể tuyên bố trước Thiên Chúa và với nhau, cũng như
trước mọi người hiện diện rằng họ sẽ chấp nhận nhau dù tốt hay xấu, giàu hay
nghèo, bệnh hoạn hay mạnh khỏe và họ sẽ yêu nhau cho đến chết. Một cuộc hôn
nhân được giả thiết sẽ kéo dài cho đến suốt đời. Nhưng điều đó thì không luôn
luôn xảy ra giống như vậy. Ngày xưa, khi các đôi hôn nhân Công giáo có vấn đề
thì họ biết rằng họ phải tìm cách cố gắng để khắc phục nó. Cái điều cuối cùng
mà họ nghĩ đến mới là ly dị. Bây giờ ly dị là điều đầu tiên mà các cặp hôn nhân
nghĩ đến khi họ gặp một vấn đề.
Giáo
Hội đã cố gắng tranh đấu để dủ lòng xót thương hơn là cứng nhắc về bí tích hôn
phối. Điều đó có thể trình bày khi một cặp hôn nhân gặp một chướng ngại cho
cuộc hôn phối hợp lệ ngay từ khi bắt đầu và Giáo Hội đã ban phép tiêu hôn. Điều
này không phải là ly dị. Đó là một sự nhận biết bí tích hôn nhân hợp lệ đã
không hiện hữu. Tiến trình để bảo đảm cho sự tiêu hôn thì lâu dài bởi vì Giáo
Hội được ủy nhiệm bởi Đức Kitô để bảo vệ và đề xướng bản tính của hôn nhân là
một Giao Ước suốt đời. Một Giao Ước không thể chia cắt, cũng không thể bị thiêu
hủy, ngoại trừ có một lý do nghiêm trọng. Tuy nhiên khi quan sát thấy rằng một số
những đôi hôn nhân không thể sống chung khi họ không thể tiêu hôn được. Những
người Công giáo đã ly dị không được tái hôn và sẽ được rước lễ.
Tuy
nhiên chúng ta phải gìn giữ hôn nhân theo viễn cảnh, hôn nhân không phát xuất
nơi xã hội, cũng không được thiết lập bởi những thực hành thế tục. Hôn nhân là
một sáng tạo của Thiên Chúa. Đó là giáo huấn của sách Sáng Thế Ký. Thiên Chúa
muốn hôn nhân phản ánh chính tình yêu của Ngài đối với dân Người, không bao giờ
suy tàn và tình yêu đó được ban cho đặc ân sự sống. Không thể không có khó khăn
trong hôn nhân. Hôn nhân là một thách đố để trở nên giống Thiên Chúa, không có
gì ngạc nhiên khi hôn nhân không dễ dàng.
Thiên
Chúa thì trung thành, Người không chỉ yêu chúng ta kh chúng ta yêu Người. Người
không xóa bỏ tình mến của Người dành cho chúng ta bởi vì chúng ta đã yêu một
người khác. Thiên Chúa không thấy buồn sầu hay bực tức vì tội lỗi của chúng ta.
Ngài không giận dữ khi chúng ta không làm điều vừa ý Ngài. Thiên Chúa không sợ
Ngài sẽ mất thời gian để chăm sóc chúng ta khi chúng ta lâm cơn ốm nặng. Tình
yêu của Thiên Chúa thì kiên nhẫn, quảng đại và luôn quan tâm. Trên hết, tình
yêu Thiên Chúa không bao giờ suy suyển, tình yêu ấy là một lý tưởng thách đố
tất cả mọi cặp vợ chồng.
Làm
cha mẹ là một phần của đời sống hôn nhân. Có con cái đó là một ân phúc nhưng
cũng có thể là có nhiều đòi hỏi đi kèm theo. Đừng ngạc nhiên, có con cái là trở
nên giống Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã được kết trái. Tuôn trào từ Người
là đặc ân của sự sống. Chúa Giêsu rất yêu thương những trẻ nhỏ. Nơi chúng,
Người không chỉ thấy đó là hoa quả tình yêu giữa người chồng và người vợ, nhưng
Người cũng còn thấy đó là sự tuôn trào sự sống từ nơi Cha thần linh của Người.
Chúa
Giêsu là kiểu mẫu của tình yêu hôn nhân và của các bậc cha mẹ, đặc biệt là hy
tế của Người trên thánh giá. Hy sinh cần thiết cho đời sống hôn nhân. Chỉ có
tình yêu mới làm cho sự hy sinh trở nên có thể. Tình yêu đó phát xuất từ Chúa
Giêsu, đặc biệt là từ Thánh Thể. Những đôi hôn nhân Công giáo phải cùng nhau
lãnh nhận Thánh Thể với lời cầu nguyện trong tâm trí của họ: “Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp cho chúng con yêu mến lẫn nhau và yêu mến con cái của chúng con với
một tình yêu mà Người đã tỏ bày cho chúng con, đặc biệt là qua đau khổ và cái
chết trên thánh giá của Người. Xin cho tình yêu của chúng con chẳng bao giờ
chết nhưng luôn tăng trưởng sâu xa và mạnh mẽ hơn qua từng năm tháng. Xin cho
tình yêu của chúng con trở nên giống như tình yêu của Người”. Điều đó không dễ
dàng nhưng sẽ có thể và nó sẽ trở nên đáng giá.
5.
Để thành toàn tình yêu – Achille Degeest.
(Trích trong
‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’).
Đoạn
Phúc âm này là đối tượng của quá nhiều công trình bình giải, tốt nhất chúng ta
chỉ nên tìm hiểu đường lối của Giáo hội về điểm này. Sau đây là lập trường của
Cộng đồng Vaticanô II về tình yêu trong hôn nhân.
1)
Tình yêu vợ chồng có đặc tính nhân bản cao quý vì từ một nhân vị hướng đến một nhân vị
khác, do một tình cảm tự nguyện, do đó bao gồm hạnh phúc toàn diện của
con người. Cho nên tình vợ chồng có thể lồng vào những biểu lộ của thể xác và
tâm linh khiến chúng ta trở nên cao quý như những yếu tố vào dấu hiệu đặc thù
của tình bạn thiết giữa vợ chồng. Bởi ơn huệ đặc biệt của ân sủng và lòng ưu ái
của Người, Chúa đã đoái thương chữa trị, cải thiện và nâng cao tình yêu ấy.
Một
tình yêu kết hợp yếu tố nhân loại và yếu tố thần linh như thế, phải thấm nhuần
cả đời sống, hướng dẫn vợ chồng biết tự do trao hiến cho nhau, qua những tâm
tình và cử chỉ âu yếm. Hơn nữa, chính nhờ những hành vi quảng đại của mình mà
tình yêu giữa hai người được trọn vẹn và lớn mạnh. Vì vậy tình yêu vợ chồng
vượt xa xu hướng nhục dục thuần túy và xu hướng này nếu được vun tưới chỉ vì
ham thích, sẽ tan biến mau chóng để lại những di lụy thảm hại.
2)
Sự âu yếm nói trên biểu lộ và hoàn hảo cách đặc biệt qua tác vụ riêng của hôn
nhân. Bởi vậy
những hành vi thực hiên sự kết hợp mật thiết và thanh khiết của vợ chồng đều là
đoan chính và tự chế. Được thi hành thật sự đúng với nhân luân, những hành vi
ấy biểu thị và khuyến khích sự trao tặng tương giao, nhờ đó hai người thêm
phong phú trong niềm hân hoan và biết ơn. Tình yêu ấy được bảo đảm với sự cam
kết giữa vợ chồng và nhất là được chuẩn nhận bởi bí tích của Đức Kitô.
Mối
tình đó trung thành bất khả phân ly về thể xác và tâm hồn, bất kể thăng trầm
trong cuộc sống do đó nó loại hẳn mọi sự ngoại tình và ly dị. Phải nhìn nhận
cái phẩm giá cá nhân bình đẳng giữa vợ chồng trong tình thân ái trọn vẹn, để
nhờ đó biểu hiện rõ ràng tính cách duy nhất của hôn nhân đã được Chúa xác nhận.
Để kiên trì gánh vác những bổn phẩn của ơn gọi Kitô giáo này cần phải có một
nhân đức ít thấy, vì thế, vợ chồng đã được ân sủng củng cố để sống thánh thiện
sẽ ân cần nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện - một tình yêu vững bền, đại lượng,
sẵn sàng hy sinh.
3)
Tình yêu vợ chồng chân chính sẽ được quý trọng hơn và gây được một dư luận lành
mạnh hơn, nếu
những đôi vợ chồng Kitô hữu làm chứng rõ ràng về sự trung thành và hòa hợp
trong tình yêu cũng như trong việc ân cần giáo dục con cái, nếu họ đóng góp
trách nhiệm hoạt động trong việc chấn hưng văn hóa, tâm lý và xã hội, một sự
chấn hưng cần thiết để đề cao hôn nhân và gia đình.
Phải
biết kịp thời giáo dục thanh thiếu niên theo một đường lối thích ứng, tốt nhất
là trong khung cảnh gia đình, để giới trẻ hiểu biết về phẩm giá, chức năng và
cách thể hiện tình vợ chồng. Nhờ vậy, một khi đã được rèn luyện để giữ gìn đức
khiết tịnh, chừng nào tới lứa tuổi thích hợp, giới trẻ từ giai đoạn đính ước
đúng đắn, có thể dấn mình vào bậc hôn nhân (Hiến chế Vui mừng và Lo âu, 49).
6.
Đừng chia tay với người mình yêu.
Hôn
nhân là con đường thông thường của phần đông nhân loại. Có những người đã bước
vào cuộc đời hôn nhân và đang sống với một tổ ấm tươi đẹp, êm đềm và hạnh phúc.
Cũng có những người đang kéo lê cuộc sống gia đình “cơm không lành, canh không
ngọt”, một cuộc sống khổ đau không lối thoát.
Montaigne đã trình bày hôn nhân như
một chiếc lồng sơn son thiếp vàng: những con chim ở ngoài khao khát được vào,
còn những con ở trong thì lại làm hết cách để thoát ra. Ca dao Việt Nam cũng có
câu ý tương tự: “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt. Cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô”.
Cách đây không lâu, màn ảnh thành phố
chúng ta có chiếu bộ phim mang tựa đề: “Chúng tôi muốn ly hôn” rồi một bộ phim
khác mang tựa đề ngược lại: “Đừng chia tay người mình yêu”. Chắc chắn các bạn
trẻ đã biết nội dung những cuốn phim này nói gì. Chúng đã nêu lên những lý
khiến những đôi vợ chồng đưa nhau ra toà án để xin dị:
-
Tại sao chị xin ly dị? Trước toà án,
người vợ trả lời: “Tại vì ông ấy ngáy to quá, không để cho tôi ngủ”.
Một bà vợ khác trả lời: “Tại vì ông ấy
hôi mùi thuốc lá quá, tôi không chịu được”… và mỗi người đều có lý do không đâu
cả, để bỏ nhau một cách dễ dàng, nếu như được phép ly dị.
Vậy
có được phép ly dị không? Đây là một vấn đề thời sự, nhưng cũng là một vấn đề
đã được đặt ra từ xa xưa: Từ thời Chúa Giêsu những người Biệt Phái Pharisiêu đã
từng đặt vấn đề này để thử Chúa Giêsu, bởi vì ông Môsê đã cho phép họ được làm
giấy ly hôn để đuổi người vợ nào không vừa mắt chồng ra khỏi nhà (Đnl 24,1-4).
Điều này cho ta thấy số phận hẩm hiu của người phụ nữ trong chế độ “chồng chúa
vợ tôi”.
Chúa
Giêsu đã giải quyết thế nào? Ly dị là một trục trặc của tình yêu, nó không phải
là vấn đề chính yếu. Cái chính yếu của hôn nhân là tình yêu hiệp nhất. Với
Thiên Chúa không có vấn đề ly dị. Vấn đề ly dị là vấn đề của con người. Chúa
Giêsu đã trả lời với họ: “Chính vì lòng chai dạ đá của các ông mà ông Môsê đã
phải nhượng bộ cho phép các ông làm giấy ly hôn, chứ từ ban đầu, ý muốn của
Thiên Chúa không phải như thế”.
Chúa
Giêsu phân biệt rõ rệt đâu là ý muốn của Thiên Chúa và đâu là ảnh hưởng của
thời đại. Và ảnh hưởng của thời đại không những làm lu mờ, mà có khi còn làm
mất cả ý muốn rõ rệt của Ngài. Thánh ý Thiên Chuá khi dựng nên con người có nam
có nữ là để sống chung với nhau. “Đàn ông ở một mình không tốt”. Và Ngài đã
dựng nên người đàn bà. Người đàn bà, trước tiên là hông ân của Thiên Chúa ban
cho người đàn ông. Đây là quà tặng cao nhất mà Thiên Chúa ban cho người đàn
ông, sau khi Ngài đã dựng nên cả vũ trụ đặt dưới chân của ông Ađam. Nhưng Ađam
vẫn cảm thấy cô đơn, thiếu thốn, cho đến khi Ađam gặp được chiếc xương sườn cụt
của mình là Evà, ông đã reo lên: “Đây đúng là xương bởi xương tôi và thịt bởi
thịt tôi”. Đó là hôn nhân đầu tiên. Từ đó “người đàn ông luôn luôn đi tìm chiếc
xương sườn đã bị lấy mất, còn người đàn bà luôn luôn luyến tiếc nơi mình đã
xuất phát” (Osty) để kết hợp với nhau thành một xương một thịt, một thân một
thể. “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”.
Điều
Chúa Giêsu muốn bảo vệ trước hết là phẩm giá con người. Con người càng thấp bé,
càng bị hiếp đáp bao nhiêu, càng phải được bảo vệ bấy nhiêu. Trong chế độ
“chồng chúa vợ tôi”, Chúa đã đòi phải trả lại cho phụ nữ quyền làm con người,
phải nhìn phụ nữ theo ý muốn của Thiên Chúa. Phải nhìn chân giá trị của người
phụ nữ như là người hỗ trợ, bổ túc và làm sung mãn cho người đàn ông. Vì vậy,
hôn nhân phải đặt căn bản ở sự tương trợ lẫn nhau, tôn trọng giá trị của nhau.
Chính sự hiệp nhất này làm cho hai người trở nên một và phát sinh hoa trái cho
sự sống mới. Đó là những đứa con của tình yêu. Cha mẹ có yêu thương nhau thì
mới yêu thương con cái là kết quả của tình yêu giữa vợ chồng với nhau. Cha mẹ
không được bỏ rơi con cái. Phải đón nhận tất cả con cái Thiên Chúa đã ban cho,
bởi vì các em bé là con người. Phải tôn trọng các em như con người, từ bào thai
các em đã là hơi thở và là đối tượng của tình yêu Thiên Chúa. Cha mẹ, vợ chồng
có chung tình vẹn nghĩa với nhau mới có thể đảm bảo hạnh phúc cho con cái mình.
Sở
dĩ khi xưa, ông Môsê đã chăm chước cho dân Israel được rẫy vợ là vì lòng dạ họ
lì lợm, bướng bỉnh, chai đá. Còn ngày nay, Chúa Giêsu đã rút lại luật Môsê,
chính thức thay thế nhừng gì là hủ tục trong Cựu ước bằng luật Tân Ước, chính
thức xác nhận ý muốn của Thiên Chúa từ thuở ban đầu là nhất phu nhất phụ và bất
khả phân ly của hôn nhân. Hơn nữa, từ ngày Chúa Giêsu đến, từ ngày Ngôi Lời
nhập thể làm người, hôn nhân đã tìm thấy lại tình yêu giữa Đức Kitô và Hội
Thánh. Bởi vì, việc kết hợp vợ chồng trong hôn nhân là biểu tượng, là hình ảnh
của sự kết hợp giữa Chúa Kitô và Hội Thánh. Đó là điều Thánh Phaolô đã nhiều
lần nói đến trong thư gởi tín hữu Êphêsô: “Cũng như Đức Kitô không thể chia cắt
với Hội Thánh, thì chồng cũng không thể chia ly với vợ”. Chính với tư cách là
Hiền Thê của Chúa Kitô mà Hội Thánh buộc các con cái của mình khi lập gia đình
phải tuân giữ định luật vẫn chi phối sự kết hợp giữa Hội Thánh với Chúa Kitô,
như Hiền Thê với vị Hôn Phu của mình. Làm sao Hội Thánh có thể trở về với những
nhượng bộ của thời Cựu Ước về hôn nhân được, khi mà Hội Thánh đã được nghe
chính miệng Chúa Giêsu trả lời cho những người Biệt Phái Pharisiêu: “Sự gì
Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”.
Thánh
Phaolô (1Cr 7,10-11) nói rất rõ về điều này: “Ai đã kết hôn, thì tôi truyền
–thực ra không phải tôi, mà là Chúa– là vợ không được lìa chồng, và giả như đã
lìa chồng, thì phải ở độc thân, hay phải làm hoà lại với chồng, và chồng không
được rẫy vợ”.
Hôn
nhân là một định chế do chính Đấng Tạo Hoá thiết lập, là một giao ước có tầm
vóc vững chắc, vĩnh viễn, nghĩa là một sự thoả thuận cá nhân không thể rút lui
lại được. Vì lợi ích của vợ chồng, của con cái, của xã hội và của Giáo Hội nữa,
nên mối dây liên kết thánh thiện của bí tích Hôn Nhân không lệ thuộc vào sở
thích của con người, nghĩa là không còn được tự ý bỏ nhau, một khi đã thề hứa
chung tình vẹn nghĩa, nên vợ nên chồng. Vì vậy, Chúa Giêsu còn nói rõ ràng
rằng: phải liệt kê vào tội ngoại tình, khi người chồng hoặc người vợ bỏ nhau đi
lấy người khác trong lúc mối dây hôn nhân vẫn còn hiệu lực. Chỉ có cái chết của
một bên mới cho phép bên kia được tái hôn mà thôi.
Chúng
ta hãy cầu xin Chúa chúc phúc cho mọi gia đình, nhất là các gia đình Kitô hữu
mà Chúa đã thánh hiến một cách đặc biệt bằng bí tích Hôn nhân. Nhờ đó, những
phẩm giá tự nhiên cũng như những giá trị thiêng liêng cao cả của đời sống hôn
nhân được bảo toàn, được cổ võ, được kiên cường và ngày càng tiến gần đến tình
yêu trung thành và vĩnh cửu của Thiên Chúa.
7.
Suy niệm của Lm. Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
“Sự
gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phép phân ly” Lời của Đức
Giêsu đã vang vọng qua hai mươi thế kỷ và vẫn thường được chọn để in trên thiệp
cưới.
Phải
chăng người ta ngầm nhắc nhau rằng ly dị là từ không nên có trong từ điển của
các đôi vợ chồng? Tiếc thay số vụ ly hôn nơi các kitô hữu vẫn tăng. Sống với
nhau suốt một đời trở thành ước mơ khó đạt.
Trong
xã hội Do thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không được bình đẳng với nam
giới. Người vợ là một thứ tài sản của người chồng, nên chỉ người chồng mới có
quyền ly dị vợ, có khi ly dị vì một lý do cỏn con.
Trước
câu hỏi: “Chồng có được rẫy vợ không?” Đức Giêsu kiên quyết nói không. Ngài
bênh vực các bà vợ bị áp chế. Họ không phải là một món hàng bỏ đi khi không
cần. Lập trường của ngài đi ngược với nền văn hóa và tôn giáo của thời đó cũng
như thời nay. Điều này khiến các môn đệ của Đức Giêsu có lần bị sốc. Họ nói:
“nếu vậy thì thà đừng lấy vợ thì hơn” (Mt 19, 10). Hóa ra các ông vẫn cho mình
có quyền bỏ vợ nếu muốn.
Khi
người Pharisêu trích sách Đệ Nhị Luật để biện minh cho việc ly dị đúng theo
luật Môsê, Đức Giêsu lại trích sách Sáng Thế, để nhấn mạnh đến sự hiệp nhất
vĩnh viễn của vợ chồng. Họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Điều này nằm trong ý định nguyên thủy của Thiên Chúa.
Việc
Môsê cho phép ly dị chỉ là một nhượng bộ tạm thời. Đức Giêsu đến để hoàn chỉnh
luật Môsê và khai mở trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa.
“Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp…”
Vậy
trong Lễ Cưới, không phải chỉ có hai người yêu nhau, lấy nhau và cam kết suốt
đời sống cho nhau. Hôn nhân không chỉ là bản hợp đồng giữa hai bên. Còn cần một
bên thứ ba là Thiên Chúa, Đấng phối hợp và làm cho hai bên kia nên vợ nên
chồng.
Thiên
Chúa có mặt trong mỗi Lễ Cưới, và tiếp tục bảo vệ tình yêu, cả khi hai người
muốn bỏ cuộc. Chung thủy chưa bao giờ là chuyện dễ dàng.
Khi
thịnh vượng, lúc gian nan; khi bệnh tật, lúc mạnh khỏe. Còn nhiều tình huống
khác đe dọa hôn nhân: khi buồn chán và thất vọng về nhau, khi yếu đuối vấp ngã,
khi đổ vỡ quá lớn và vết thương quá nặng, khi đời sống vợ chồng trở thành như
hỏa ngục… Những khi ấy, yêu thương và kính trọng nhau thật khó. Con người bị
cám dỗ tìm giải pháp chia tay.
Chúng
ta cầu cho những ai đã và sẽ kết hôn. Xin cho họ bớt một chút ích kỷ, thêm một
chút khiêm tốn, bớt một chút tự ái, thêm một chút phục vụ, bớt một chút tự do
đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ… Nhờ đó họ cộng tác với Thiên Chúa trong
việc bảo vệ và tưới bón tình yêu.
Gợi ý chia sẻ:
1.
Đâu
là những hậu quả của việc ly dị? Việc ly dị ảnh hưởng thế nào trên xã hội và
Giáo hội?
2.
Theo
ý bạn, đâu là những nguyên nhân đưa đến việc vợ chồng chia tay nhau?
Lời nguyện:
Lạy
Cha nhân ái, từ trời cao, xin Cha nhìn xuống những gia đình sống trên mặt đất
trong những khu ổ chuột tồi tàn hay biệt thự sang trọng.
Xin
thương nhìn đến những gia đình thiếu vắng tình yêu hay thiếu những điều kiện
vật chất tối thiểu, những gia đình buồn bã vì vắng tiếng cười trẻ thơ hay vất
vả âu lo vì đàn con nheo nhóc.
Xin
Cha nâng đỡ những gia đình đã thành hỏa ngục vì chứa đầy dối trá, ích kỷ, dửng
dưng.
Lạy Cha, xin
nhìn đến những trẻ em trên thế giới,
những trẻ em
cần sự chăm sóc và tình thương
những trẻ em
bị lạm dụng, bóc lột, buôn bán,
những trẻ em
lạc lõng bơ vơ, không được đến trường,
những trẻ em
bị đánh cắp tuổi thơ và trở nên hư hỏng.
Xin Cha
thương bảo vệ gìn giữ
từng gia đình
là hình ảnh của thánh Gia Thất,
từng trẻ em
là hình ảnh của Con Cha thuở ấu thơ.
Xin
Cha sai Thánh Thần Tình Yêu đem đến hạnh phúc cho mỗi gia đình; nhưng xin cũng
nhắc cho chúng con nhớ hạnh phúc luôn ở trong tầm tay của từng người chúng con.
Amen.
8.
Suy niệm của Gm. Arthur Tonne.
(Trích trong ‘Suy niệm Tin Mừng Chúa
Nhật & Lễ Trọng’)
CẦU NGUYỆN VỚI NHAU, Ở VỚI NHAU.
Lớp giáo lý người lớn đang học về hôn
nhân. Giáo lý viên xin mỗi học viên cho một câu hỏi về hôn nhân: những câu hỏi
tiêu biểu cho cuộc hội thảo ba cấp: Một cặp Công giáo kết hôn được 14 năm, cặp
Tin lành Methodist 22 năm và một cặp Mennenite kết hôn mới hai năm. Người chồng
Mennonite trả lời hay nhất: Jennie và tôi cả hai đã cam kết với Đức Kitô, khi
chúng tôi còn học trung học, điều đó giúp chúng tôi cam kết với nhau trong hôn
phối.
Cam
kết là quan hệ thường thấy thời nay, nó có nghĩa là một lời thề, một lời hứa
với một người khác. Trong tôn giáo, nó có nghĩa là một lời hứa đúng đắn và long
trọng để hoàn toàn trung thành với Đức Kitô. Trong hôn nhân, nó có nghĩa là một
lời hứa long trọng và thành thật, hoàn toàn trung thành với nhau.
Điều
làm sáng tỏ ý nghĩa của tôi hôm nay là: một đôi hôn phối, họ trung thành với
Chúa, có nhiều cơ may trung thành với nhau. Kinh nghiệm và điều tra đã làm sáng
tỏ điều đó: Năm 1975 trong 4 cặp có 1 cặp ly dị. Nhưng trong 57 gia đình đi lễ
đều đặn chỉ có một cặp ly dị. Điều đáng chú ý là 500 cặp gia đình đọc Kinh
Thánh đều đặn và cầu nguyện chỉ có một cặp ly dị.
Chúng
ta không thắc mắc khi cặp hôn phối cầu nguyện với nhau, họ thường ở với nhau.
Khi
một đôi hôn nhân gặp vấn đề. Họ thường thổ lộ với người khác, họ phàn nàn với
lối xóm và bạn bè. Họ khóc lóc với mẹ với cha. Họ thở than với người đồng
nghiệp, với người cùng hội cùng thuyền. Họ cũng có thể tin cậy ở một bác sĩ,
một linh mục, một tâm lý gia, một luật sư, một cố vấn hôn nhân, một viên chức.
Họ nói với bất cứ ai về tình cảnh rắc rối của họ. Nhưng họ không thưa với Chúa
về điều đó. Tất cả những người nêu trên có thể cho họ lời hướng dẫn, lòng cảm thông
và sự giúp đỡ nào đó. Nhưng không ai có thể nâng đỡ họ như Chúa, Đấng thông
biết mọi sự và yêu thương mọi loài. Hãy đơn sơ và thành thật, bạn thân thưa với
Chúa về nỗi khó khăn của bạn, chân thành và khiêm nhượng, bạn xin Chúa giúp.
Nếu thật sự bạn cảm thấy mình có tội. Đừng quá dễ dãi tha thứ cho mình. Bạn xin
Chúa hoán cải trái tim người có lỗi. Nếu bạn có lỗi, một lần nữa bạn hết sức
khiêm nhượng xin Chúa giúp bạn thay đổi. Nếu bạn cam kết với Chúa, hai bạn cũng
cam kết với nhau. Nếu bạn tập cầu nguyện riêng tư với Chúa. Hai bạn cũng sẽ
cùng cầu nguyện với nhau dễ dàng. Kết quả là mọi vấn đề sẽ được giải quyết
trước khi chúng trở nên trầm trọng.
Chúa
ban luật cấm ly dị. Chúa sẽ giúp bạn giữ luật đó. Hãy xin Chúa giúp bạn trong
Thánh Lễ hôm nay. Khi Chúa ban mình cho chúng ta trọn vẹn, chúng ta sẽ cố gắng
dâng trọn vẹn chúng ta cho Chúa.
Xin
Chúa chúc lành bạn.
9.
Suy niệm của Noel Quesson.
Đừng chia cắt những gì Thiên Chúa đã
kết hợp
Một ngày kia, có hai vị tu sĩ già cùng
ngồi đọc Tin Mừng, hôm đó họ đọc chuyện người con đi hoang. Một vị nhận xét:
“Đây thật là một câu chuyện hay. Chúa đã vẽ nên bức tranh sinh động: Người em
tự cao tự đại, ham hưởng thụ; người anh cần cù lam lũ nhưng lại nhỏ nhen ganh
tỵ; còn người cha thì dịu hiền nhân ái… Mà sao không thấy nói tới người mẹ
nhỉ?”.
Vị tu sĩ thứ hai là một người lớn
tuổi, điềm đạm trả lời: Nhưng bạn ơi, nếu gia đình đó còn mẹ, chắc người con sẽ
không bỏ nhà đi hoang đâu!
Một
gia đình đầy đủ, mỗi người đều làm chu toàn sứ mệnh của mình thì đó là một bảo
đảm về hạnh phúc cho từng người và cũng là một cái nôi an toàn cho đức hạnh, tư
cách của mỗi người. Đó cũng là bảo đảm thành công trong hoạt động xã hội, và
trợ lực người ta rất nhiều trong việc rèn luyện các đức tính tự nhiên cũng như
siêu nhiên.
Và
một gia đình như vậy phải xây dựng trên nền tảng hôn nhân vững chắc, một hôn
nhân theo đường hướng Chúa Giêsu đã vạch định và củng cố. Từ đầu Thiên Chúa đã
dựng nên mọi sinh vật, từ thực vật, động vật có đực có cái, đến con người có
nam có nữ, có đàn ông, đàn bà. Những khác biệt về giới tính đi tới một hòa hợp
diệu kỳ, bổ túc cho nhau để đạt thăng tiến phát triển. Nhưng trong lịch sử tiến
hóa của nhân loại, quan niệm về giới tính đã trải qua nhiều giao động thăng
trầm; khi thì bi quan nghiêm khắc muốn tiêu diệt tính dục, có lúc lại quá lạc
quan đến mức tự do phóng túng, chủ trương tìm hưởng lạc thú như mục đích đời
người.
Nền
luân lý của Do Thái cổ truyền cũng qua nhiều biến động. Các tổ phụ đều chấp
nhận đa thê, và luật Môisê cho phép bỏ vợ nếu có lý do chính đáng, chỉ cần
thành lập một chứng từ ly hôn. Nhưng tới thời Chúa Giêsu thì luật đó cũng được
đưa ra mổ xẻ. Vì thế mới có câu hỏi: “Có được phép bỏ vợ không?”. Nhân dịp này
Chúa Giêsu xác định quan điểm của Người về hôn nhân. Trước hết nhận xét về luật
cho ly dị của Môisê. Chúa bảo đầu tiên không phải như vậy, nhưng Môisê đã chiều
theo sự yếu đuối của con người mà tạm thời đưa ra những quy luật rộng rãi. Đã
đến lúc phải đặt vấn đề vào đúng chỗ ban đầu của nó. Hôn nhân phải có hai đặc
tính: một vợ một chồng và không ly dị.
Chỉ
có một vợ một chồng, vì hai người nam nữ phải được bình đẳng. Đó là hai nhân vị
cùng quan trọng như nhau, bổ túc cho nhau, chu toàn những sứ mệnh riêng không
ai thay thế được. Và phải có tư thế bền vững để mọi thành phần gia đình được yên
vui hạnh phúc, nhất là cho những đứa con đang hình thành về thể chất và tinh
thần. Không ổn định, không vững chắc thì không thể nào xây dựng những giá trị
lâu dài được.
Quan
điểm này phần nào khác với một số người đồng thời với Chúa Giêsu, nhất là trái
với nếp sống của đa số nhân loại thời nay. Nhưng lại rất cần thiết để đạt hạnh
phúc. Hôn nhân phải xây dựng trên tình yêu. Kết hợp với nhau là phải nghĩ tới
người khác. Chỉ được hưởng hạnh phúc khi tạo dựng hạnh phúc cho người bạn, cho
thành phần khác trong gia đình. Còn nếu chỉ nghĩ tới mình thì rồi sẽ có lúc
thấy người khác là gánh nặng mình muốn trút bỏ.
Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết xây dựng niềm tin trên quan điểm của Chúa. Cho
chúng con biết kiên tâm bảo vệ hạnh phúc gia đình để chúng con được hạnh phúc
trong cuộc sống này trong khi mong đợi cuộc sống hạnh phúc mai sau.
10.
Vợ chồng bất khả phân ly.
Ngày
hôm nay bọn Biệt phái đã đưa ra vấn đề ly dị để gài bẫy Chúa Giêsu. Họ hỏi Ngài
có được phép ly dị hay không? Bởi vì trong sách Đệ Nhị Luật, Maisen đã khẳng
định: Một người đàn ông lấy vợ, nhưng sau đó nhận thấy người vợ không đẹp mắt
mình, ông ta có quyền dãy vợ và đuổi vợ đi.
Đây
là một vấn đề được tranh cãi rất nhiều nơi dân Do Thái. Có người thì chủ trương
được ly dị với bất cứ lý do nào, có người thì quan niệm chỉ được ly dị với lý
do thật nghiêm trọng và chính đáng mà thôi. Nếu Chúa Giêsu chấp thuận ly dị thì
đi ngược lại với lề luật của Thiên Chúa, còn nếu Ngài không chấp thuận thì Ngài
sẽ mất đi cảm tình của dân chúng và không tôn trọng luật lệ Maisen. Đằng nào
thì Ngài cũng sẽ rơi vào cái bẫy được gài sẵn.
Hơn
thế nữa, lúc bấy giờ chính Hêrôđê cũng đã dãy vợ để lấy người chị dâu của mình.
Gioan Tiền hô đã lên tiếng can ngăn và đã phải trả giá bằng chính cái chết của
mình. Chúa Giêsu đã nhìn thấy rõ âm mưu thâm độc ấy và đã nói với họ: Sở dĩ
Maisen chấp nhận là vì sự cứng lòng của họ, chứ từ thuở ban đầu thì đã không
như thế. Bởi vì Thiên Chúa đã dựng nên người nam và người nữ, để cả hai trở nên
một xương một thịt. Nghĩa là cả hai phải bổ túc lẫn cho nhau. Sợi giây hôn nhân
này còn bền chặt hơn cả sợi giây máu huyết. Bởi đó người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ
để kết hiệp với vợ mình. Và Chúa Giêsu đã kết luận:
-
Sự
gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì loài người không được phân ly.
Lời
xác quyết của Chúa Giêsu thì vững vàng như đá tảng. Chính vì thế mà Giáo hội
luôn bênh vực cho tính cách bất khả phân ly của hôn nhân.
Như
chúng ta đã biết gia đình là tế bào sống động của nhân loại, là nền tảng kiên
vững của xã hội. Nền tảng này tồn tại được là do tính cách bất khả phân ly của
hôn nhân. Nếu vợ chồng tan rã thì đang sẽ sụp đổ. Một khi gia đình đã sụp đổ
hẳn sẽ kéo theo nhiều hậu quả tai hại cho xã hội.
Thực
vậy, vì
lợi ích của cả hai vợ chồng mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Một
cuộc tình tan vỡ, hẳn sẽ gây đau khổ cho cả hai, nhất là người vợ. Nơi những
quốc gia mà chế độ đa thê còn tồn tại, thì người phụ nữ phải chăng chỉ là một
thứ đồ chơi không hơn không kém. Với đặc tính bất khả phân ly, Giáo hội đã lớn
tiếng bênh vực quyền lợi của người phụ nữ.
Tiếp
đến vì
lợi ích của con cái mà hôn nhân đòi phải được bền vững. Trẻ nhỏ như một
mầm non, cần phải được che chở bởi sức mạnh của người cha và tình thương yêu
của người mẹ. Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho trẻ thơ những bài học làm
người, trong đó cha mẹ chính là những bậc thày, những người hướng dẫn không thể
thay thế. Con cái sẽ như thế nào nếu như cha một nơi, mẹ một nẻo và như thế,
chính bản chất của hôn nhân đòi buộc tính cách bất khả phân ly. Để duy trì được
đặc tính này, dĩ nhiên chúng ta phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm, nhưng nhờ
chính những hy sinh và từ bỏ ấy mà tình yêu của chúng ta ngày một thêm mặn nồng
và đằm thắm.
Có
lẽ giờ này Chúa Giêsu cũng muốn nhắn nhủ chúng ta, những cặp vợ chồng Công
giáo, đó là: Sự gì Thiên Chúa đã liên kết, thì loài người không được phân ly.
11.
Bền vững.
Bài
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu tuyên bố cho những người Pharisêu cũng như cho mọi
người biết chủ trương của Ngài về hôn nhân và cũng là lề luật của Thiên Chúa,
là vợ chồng phải nhất phu nhất phụ và bất khả phân ly, tức là chỉ được một vợ
một chồng và phải sống chung thủy với nhau suốt đời. Nói khác đi, Chúa Giêsu
không chấp nhận đa phu đa thê và ly dị. Tại sao Chúa Giêsu lại chủ trương như
vậy và đòi hỏi mọi người phải sống như vậy?
Trong báo Tuổi Trẻ Cười số 3 phát hành
vào đầu tháng ba năm 1984, có một bài đầu đề là “Hôn nhân kiểu Mỹ” kể rằng:
chuyện thay vợ đổi chồng như thay áo của người Mỹ cũng đáp ứng nhu cầu tiện
dụng, bởi vì mọi thứ trong cuộc sống của họ đều phải tiện dụng, đều mang dấu
vết những sản phẩm chế tạo hàng loạt. Khi nói như vậy tác giả bài báo này có
dụng ý nói rằng: chuyện bỏ nhau, chuyện thay vợ đổi chồng ở Mỹ rất nhiều và rất
dễ dàng. Mọi người dân Mỹ đều thuộc làu bộ luật ly dị, vì nó giản tiện hơn
những bộ luật khác.
Đó là chuyện của xứ người, còn ở xứ ta
thì sao? Báo chí cho biết: tại thành phố Hồ Chí Minh, qua thụ lý sơ thẩm của
các tòa án quận huyện, được tòa án thành phố tổng hợp, thì hiện tượng ly hôn đã
gia tăng đáng kể, đến mức báo động trong những năm gần đây. Báo chí còn cho biết
thêm: phần đông đơn xin ly hôn là của những đôi vợ chồng ở lứa tuổi 30 tới 40
và có rất nhiều đôi vợ chồng mới lấy nhau từ một đến năm năm. Có bài báo, sau
khi đã kể ra một số lý do dẫn đến ly hôn, đã kết luận: có những trường hợp có
lý do chính đáng, nhưng cũng có những trường hợp lý do đưa ra xin ly hôn thật
lẩm cẩm. Một số dẫn chứng trên cho thấy tình trạng hôn nhân ngày nay và củng cố
cho điều Chúa Giêsu dạy trong Tin Mừng hôm nay.
Bước
vào hôn nhân, tất cả mọi người, ai cũng muốn được hạnh phúc, trọn đời yêu
thương, và cuộc tình không phải chỉ là chuyện tháng ngày, vui thì ở, chán thì
chia tay, nhưng trái lại, luôn bền vững, tươi đẹp. Chính Chúa Giêsu cũng mong
muốn như thế, nên Ngài đã nâng sự kết hợp vợ chồng lên hàng bí tích, nghĩa là
một sự kết hợp thánh thiện, bền chặt, biểu tượng của sự kết hợp mầu nhiệm giữa
Chúa Kitô và Hội Thánh. Sự kết hợp này keo sơn và bền chặt, ngoài sự chết,
không sức mạnh nào, không uy quyền nào có thể chia lìa. Vì thế, khi những người
Pharisêu đến chất vấn Chúa: có được phép ly dị để lấy người khác không? Hẳn là
họ muốn hỏi: có được thay vợ đổi chồng, đa phu đa thê không? Họ còn nại đến thế
giá của ông Môsê để hỏi thử Chúa. Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã điềm đạm nhắc lại
cho họ biết luật nguyên thủy của Thiên Chúa là một vợ một chồng, còn việc ông
Môsê cho phép bỏ nhau để lấy người khác là vì lòng dạ dân chúng thời đó cố
chấp, nên ông Môsê phải nhường bộ, chứ thuở ban đầu đâu có thế. Như vậy, Chúa
Giêsu đã chính thức rút lại luật Môsê và thay thế những gì là hủ tục trong Cựu
ước bằng luật Tân ước, nghĩa là Chúa chính thức xác nhận luật nhất phu nhất phụ
và bất khả phân ly của hôn nhân, đồng thời Chúa đòi hỏi mọi người phải sống
theo luật lệ này. Vì thế từ xưa cho đến nay, Giáo hội vẫn luôn trung thành tuân
giữ.
Hôn
nhân là vấn đề tình yêu, một tình yêu chân chính không chấp nhận chia sẻ, phân
tán. Khi yêu người ta muốn chiếm trọn, muốn được chung tình, chứ không ai muốn
chung chạ hay nửa đường đứt gánh. Vì thế, bất cứ khi nào tình yêu bị sứt mẻ, bị
chia sẻ, bị phản bội, người ta sẽ không quản gian nguy, không ngại tai tiếng,
không ngại hy sinh, để quyết bảo vệ cho kỳ được tình yêu đó, như đánh ghen, đập
phá, chém giết, thuê người hành hung, tạt át xít tình địch… Tất cả những hành
động đó không ngoài mục đích đòi quyền yêu và được yêu một cách tuyệt đối trong
hôn nhân, không ngoài mục đích bảo vệ đạo chung thủy của vợ chồng.
Không
thể có hạnh phúc trong những gia đình chồng đèo bồng vợ lang chạ, trái lại, khi
“sợi giây” tơ hồng bị xé lẻ thì biết bao cảnh hỗn loạn tang thương xảy đến cho
gia đình, vợ chồng sẽ không còn lòng quảng đại để tha thứ và để cảm thông nhau
như trước nữa, bầu khí gia đình ngột ngạt, nghi kỵ, hằn học, ăn miếng trả miếng
sẽ bùng nổ từ đây, và không sớm thì muộn sẽ đi đến chỗ đưa nhau ra tòa đòi ly
dị. Tình trạng bi đát này sẽ gây nên nhiều đau khổ cho hai người.
Nhưng
hậu quả tai hại nhất của gia đình ly dị là số phận con cái. Thật bất hạnh cho
chúng, sinh lầm trong những gia đình bất hòa ấy: tâm tư tình cảm chúng bị đầu
độc, chia sẻ, tình huynh đệ bị sứt mẻ héo tàn, tuổi trẻ mơ mộng bị hoen ố, lòng
chúng hoang mang, mặc cảm, chán chường. Tội ác phát sinh ra tội ác, từ một gia
đình thiếu tình yêu, chúng càng khao khát tình yêu khi nhìn đến anh em của
những gia đình khác, chúng muốn tình thương mà lại thiếu tình thương, chúng
muốn thoát ly gia đình để đòi hỏi một sự bù đắp nào đó, đòi hỏi không được thì
càng gào thét, đập phá, quấy rối… và trở thành những trẻ em hư hỏng.
Trong
phạm vi tự nhiên mà đã nguy hại như thế huống chi là phạm vi siêu nhiên. Gia
đình là nền tảng của Giáo hội, là tế bào sống của Giáo hội. Nếu tế bào đó không
sống, bị hư hỏng thì nhiệm thể đâu còn có lành mạnh được. Chúa nói: “Gia đình
nào chia rẽ là tự hủy”. Trường hợp đau thương đó nếu còn được người cha hay
người mẹ biết chịu đựng, nhẫn nại, hướng dẫn các con thì còn hy vọng cứu vãn
được con cái, nhưng nếu “ông ăn chả bà ăn nem” thì sẽ không còn mảnh đức tin
nào nữa. Chúa Kitô đã xác định rõ ràng: “Điều Thiên Chúa đã kết hợp, con người
không được phân ly”, phân ly là mất mát, là chết chóc.
Nếu
thực tại hôn nhân ngày nay đã lệch chính đạo và xa rời ý muốn của Thiên Chúa,
thì nhiệm vụ đưa hôn nhân trở về nguồn là một vinh dự và cũng là một trọng
trách của đôi bạn đã kết ước, của các bậc cha mẹ, của các gia đình, và của hết
mọi người có nhiệm vụ rao truyền lời Chúa cho muôn dân.
12.
Đời đời.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, những người Pharisêu đã trưng dẫn luật Môsê cho phép một
người Do Thái ly dị vợ mình. Một câu trích trong sách Đệ Nhị Luật (24,1) nói
rằng: “Nếu một người đàn ông thấy nơi vợ mình có điều gì chướng thì sẽ viết cho
nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà”. Nghe có vẻ giống
như ném một cái rác vào trong thùng rác.
Nhưng
Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đến tính vĩnh viễn và bất khả phân ly của hôn nhân.
Người trích một câu trong sách Sáng Thế Ký như sau: “Lúc khởi đầu công trình
tạo dựng. Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế người đàn ông sẽ
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như
vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa phối hợp, loài người không được phân ly”.
Hôn
nhân là một giao ước vĩnh viễn giữa người chồng và người vợ, được ký kết trước
mặt Thiên Chúa. Hai người tự nguyện thề hứa dâng hiến cuộc đời cho nhau. Giao
ước này khác xa các hợp đồng kinh tế. Chẳng hạn, nếu chúng tôi muốn thuê một
căn hộ chúng tôi sẽ ký một hợp đồng trong một thời hạn nhất định, có ghi rõ số
năm, tháng mà chúng tôi sẽ thuê căn hộ đó. Giao ước hôn nhân thì khác hẳn. Bởi
vì nó không phải là một giao kèo có thời hạn, nhưng là một cam kết dấn thân
sống kết hiệp với nhau trong suốt cả cuộc đời.
Hai
người phải phối hiệp với nhau. Trong hôn nhân, sự chia cách là hậu quả của
những hiểu lầm. Ly dị có thể phá hủy không chỉ là cuộc sống lứa đôi mà thôi, nhưng
còn phá hủy cả tương lai của con cái nữa. Vì thế, hôn nhân mang ý nghĩa một sự
kết hiệp vĩnh viễn, giữa người chồng với người vợ, và còn là sự liên đới giữa
cả cha mẹ với con cái nữa.
Cả
hai vợ chồng sẽ trở nên một xương một thịt. Theo kế hoạch của Thiên Chúa, họ
không còn là hai nữa nhưng đã kết hợp nên một. Điều này có thể thấy được trong
cố gắng kết hiệp của họ để giúp nhau lớn lên trong sự trưởng thành.
Để
cuộc sống lứa đôi được hạnh phúc, người ta cần phải có nhiều yếu tố chẳng hạn
như sự thành thật, tinh thần hy sinh, hợp nhất, sự tha thứ, tinh thần phục vụ
quảng đại.
Lạy
Chúa, xin chúc lành cho mọi cuộc hôn nhân. Xin giúp các người làm chồng và làm
vợ biết sống trung thành với lời dạy của Chúa.
13.
Hôn nhân.
Bài
Tin Mừng có hai phần: Phần thứ nhất là lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề hôn
nhân. Phần thứ hai là thái độ của Chúa Giêsu đối với các trẻ em. Phần thứ nhất
chính là đoạn Tin Mừng thường được đọc trong thánh lễ hôn phối, chúng ta sẽ tìm
hiểu sau đây.
Đề
tài của đoạn Tin Mừng này là vấn đề ly dị do những người Pharisêu đặt ra với ý
đồ gài bẫy Chúa Giêsu. Chúng ta nên biết: các kinh sư Do thái thường tranh luận
với nhau về những lý do cho phép ly dị chứ không tranh luận về chính việc được
phép ly dị hay không. Và luật Do thái chỉ cho phép đàn ông bỏ vợ chứ không cho
phép đàn bà bỏ chồng. Như vậy, chuyện những người Pharisêu đặt vấn đề với Chúa
Giêsu: “Có được phép ly dị không?” quả là khúc mắc, tế nhị và phức tạp. Họ muốn
Chúa phải xác định lập trường rõ ràng trước mặt dân chúng và trước mặt họ. Luật
đã cho phép ly dị, nếu Ngài bảo không được, tức là Ngài chống lại luật. Ngược
lại, nếu Ngài bảo được, thì họ sẽ chống lại Ngài. Cho nên, rõ ràng những người
Pharisêu có ý gài bẫy Chúa. Chúa trả lời thế nào?
Chúa
hỏi lại họ: “Ông Mô-sê truyền dạy thế nào?”. Thật sự trong Cựu ước không có một
chỗ nào ghi một mệnh lệnh tổng quát phải ly dị hay không được ly dị, cũng chẳng
có chỗ nào trực tiếp chỉ thị muốn ly dị thì phải làm gì. Vậy những người
Pharisêu trả lời câu hỏi của Chúa thế nào? Họ trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, đoạn
24 câu 1 đến câu 4. Trong đoạn này, sách Đệ Nhị Luật cũng chỉ gián tiếp nói về
việc làm giấy ly dị. Đó là trường hợp một người đàn bà đã bị chồng ly dị và có
làm giấy ly dị đàng hoàng, nay đi lấy người khác, rồi lại bị ông chồng mới này
ký giấy ly dị, thì người chồng thứ nhất, dù có vì tình xưa nghĩa cũ, muốn đoàn
tụ với nàng, cũng không được phép. Vậy khoản luật này chỉ trực tiếp đề cập đến
vấn đề người chồng cũ có quyền cưới lại người vợ mình đã ký giấy ly dị không?
Luật trả lời không được. Nhân vấn đề đó mà sách này cho chúng ta biết: luật gia
đình của người Do thái cho phép chồng ly dị vợ.
Chúa
Giêsu đã trả lời cho những người Pharisêu: sở dĩ ông Mô-sê đã ra luật đó, “vì
lòng các ông chai đá”, nên đó chỉ là điều nhân nhượng mà thôi, chứ từ ban đầu
không có như vậy, và Chúa kết luận: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly”. Như thế, Chúa Giêsu cho mọi người biết rõ lập trường của
Ngài là không bao giờ được ly dị, nghĩa là một người nam và một người nữ đã kết
hợp với nhau nên một trong hôn nhân theo luật của Chúa, thì họ không có quyền
và cũng không ai có quyền phá vỡ cái nên một ấy.
Như
vậy, bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết rõ luật của Chúa và Giáo hội: sự
nên một trong hôn nhân là một công trình tuyệt vời của Thiên Chúa, nên những ai
đang sống trong sự nên một ấy phải tôn trọng và giữ nó cho thật đẹp và thật
bền, và phải làm cho nó trọn vẹn hơn mãi, không những một thân xác mà một tâm
hồn, một cuộc sống, một hạnh phúc. Chính do sự nên một ấy mà đứa con xuất hiện
như một đóa hoa, một trái ngọt ngào và được nên người. Thánh Phaolô đã nêu cao
giá trị của sự nên một ấy khi đem đối chiếu với sự nên một giữa Chúa Kitô và
Giáo hội.
Còn
những người chuẩn bị đi vào cuộc sống hôn nhân phải thận trọng và chuẩn bị kỹ
lưỡng để sự nên một ấy có thể được thành tựu tốt đẹp. Nếu Chúa đã an bài con
người có nam có nữ để rồi nam nữ thành một, thì Chúa vẫn dành cho con người
quyền tự do để lựa chọn. Chuyện hôn nhân là chuyện của hai người trong cuộc.
Những người khác dù là cha mẹ, vẫn phải tôn trọng, giúp cho người liên hệ chọn
lựa, chứ không có quyền áp đặt. Cần dứt khoát với hủ tục ép buộc con lấy người
này người khác. Người ta đã coi đó là lễ giáo, nhưng chắc chắn nó không phù hợp
tinh thần Tin Mừng. Vì thế, Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự cưỡng ép trong
vấn đề hôn nhân.
Xin
Chúa cho những ai đang sống đời hôn nhân luôn trung thành với nhau; và những ai
sắp bước vào đời hôn nhân, chuẩn bị cẩn thận để bảo đảm trung thành luôn mãi.
14.
Gia đình.
(Trích trong
‘Sợi Chỉ Đỏ’)
“Cha mẹ tôi đã ly hôn, chúng tôi sống
với mẹ. Mẹ chúng tôi đã tận lực nuôi dưỡng chúng tôi. Tôi buồn giận cha tôi
lắm, tuy nhiên tôi thấy thiếu vắng cha tôi kinh khủng. Biết bao lần tôi hình
dung cha tôi mà tôi chỉ nhớ loáng thoáng bóng dáng. Tôi tưởng tượng một ngày
nào đó đến nhà ông để khạc nhổ vào mặt ông ta cho hả cơn oán ghét và khinh bỉ.
Hôm khác tôi lại mơ thấy mình nằm gọn trong cánh tay cha tôi, đắm mình trong
một tình thương mà tôi tưởng chừng đã phai tàn. Rồi tôi đã khóc, nhưng không ai
biết…Tôi nằm lăn đất vì đau khổ, vì bị xung độ khủng khiếp. Tôi muốn tìm cách
báo thù: chống lại cha tôi, chống lại mẹ tôi, chống lại mọi người, chống lại xã
hội và chống lại… chính tôi nữa!”
Tâm trạng của một đứa con mà cha mẹ đã
ly dị với nhau là như thế: bị xâu xé ray rứt rất đau đớn: vừa thù ghét cha mẹ
mà vừa đói khát thèm muốn tình thương của cha mẹ. Tương lai của những đứa con
ly hôn là như thế: nó sẽ nổi loạn chống lại mọi người, phá phách mọi người và
phá phách cả cuộc đời của chính nó nữa.
Vậy
mà ít ai lưu tâm đến hoàn cảnh đau khổ to lớn ấy của những đứa con mà cha mẹ đã
ly hôn. Ngược lại càng ngày người ta càng ủng hộ việc ly dị. Theo một bảng
thống kê ở các nước giàu có phát triển thì cách đây 20 năm cứ 20 cặp vợ chồng
thì có một cặp ly dị, cách đây 10 năm thì trong 10 cặp có một cặp ly dị, và
hiện thời cứ 2 cặp là có một cặp ly dị. Nghĩa là tỷ lệ phân nửa: bên Nga cũng
vậy mà bên Mỹ cũng vậy!
Lý
do người ta dựa vào, là “Đã không thể sống chung với nhau nữa thì thà chia tay
nhau”. Một lý do quá giản dị, nhưng vì quá giản dị nên cũng quá thiếu sót, ít
ra là thiếu sót ba điểm sau đây:
1/
Thứ nhất là quá ích kỷ:
chỉ lo cho những cặp vợ chồng mà không nghĩ đến những đứa con. Cho phép ly dị
thì có lẽ vợ chồng sẽ thoải mái đấy, nhưng con cái thì như chúng ta đã thấy qua
bức trên đây. Cha mẹ muốn thoải mái cho bản thân mình, và dồn mọi hậu quả cho
những đứa con phải chịu. Mà những đứa con đó nào có tội tình gì đâu? Tội là ở
cha mẹ chúng, nhưng chúng phải gánh lấy hậu quả hoàn toàn.
2/
Thứ hai là phản trắc, lật lọng:
những người ly dị là những kẻ phản trắc, lật lọng, không phải đối với ai khác
mà đối với chính bản thân họ, đối với chính lương tâm của họ. Họ hãy nhớ lại
xem trước khi cưới họ đã nghĩ gì, đã muốn gì, đã thề hứa gì? Họ muốn chiếm cho
bằng được con người lúc đó họ đang yêu, họ chấp nhận tất cả mọi khó khăn xung
đột của cuộc sống chung, và họ thề sẽ yêu thương nhau trọn đời. Lúc ban đầu thì
vậy, nhưng lúc sau thì khác không yêu nhau nữa, không chấp nhận nhau nữa và đòi
bỏ nhau bằng mọi giá. Có phải là phản trắc, là lật lọng, là tiền hậu bật nhất
không?
3)
Và điểm thứ ba là người ta đã quên một điều rất là thông thường trong cuộc sống
hôn nhân: bất
cứ cặp vợ chồng nào cũng phải trải qua những cuộc khủng hoảng. Không
cặp nào thoát. Đó là điều tất yếu, và có thể nói còn cần thiết nữa. Cũng như
một đứa trẻ cần phải trải qua khủng hoảng của tuổi dậy thì mới trở nên người
lớn được, thì bất cứ cặp vợ chồng nào cũng cần phải trải qua khủng hoảng mới đi
đến chỗ trưởng thành. Vậy mà khi gặp khủng hoảng thì tính ngay chuyện ly dị,
thử hỏi làm sao gia đình trưởng thành được?
Đó
là ba điểm rất quan trọng mà người ta đã bỏ qua không xét tới. Vì bỏ qua những
điểm quan trọng như thế nên người ta càng ngày càng đòi hỏi ly hôn: những cặp
vợ chồng trẻ đòi ly hôn, cha mẹ đôi bên xúi ly hôn, luật pháp cho phép ly hôn…
Chỉ có Tin Mừng Chúa và Giáo hội Công giáo là còn cố gắng ngăn cản việc ly hôn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta nên lưu ý tới những điểm sau đây:
1.
Những người biệt phái dẫn chứng với Đức Giêsu rằng ông Môsê cho phép ly hôn.
Đức Giêsu trả lời: đó chỉ là vì lòng dạ chai đá của các ngươi thôi. Nghĩa là
Đức Giêsu vạch cho thấy nguồn gốc của ly
hôn là lòng dạ chai đá, lòng xấu của con người. Và như chúng ta đã phân
tích ở trên, lòng xấu ấy chính là cái tính ích kỷ, cái thái độ phản trắc lật
lọng, thái độ hèn nhát vội tìm đường lẩn tránh trước những khủng hoảng tất yếu
của hôn nhân.
2.
Đức Giêsu nhắc nhở tính chất bất khả ly
của hôn nhân là quyền của Thiên Chúa, con người không có quyền làm ngược
lại “Điều gì mà Thiên Chúa đã kết hợp, con người không được phân ly”. Nghĩa là
Đức Giêsu phủ nhận mọi quyền của con người trong vấn đề này: vợ chồng không có
quyền đòi ly dị, cha mẹ đôi bên và bè bạn không có quyền xúi ly dị, luật lệ xã
hội không có quyền cho phép ly dị, cho nên dù có một trăm tờ giấy ly dị cũng
chẳng có chút giá trị nào trước mặt Chúa.
3.
Và thứ ba là Chúa nhắc mọi người phải
nhớ đến những đứa trẻ. Đức Giêsu đã ôm trẻ nhỏ vào lòng, Ngài đã chúc lành
cho chúng để nhắc mọi người phải thương yêu chúng, phải bao bọc chúng, đừng
ruồng bỏ chúng để chúng phải bơ vơ vì cha mẹ chúng đã ly dị nhau; đừng ngăn
cản, không cho chúng đến với Chúa bằng cách dạy chúng vào con đường bất mãn,
nổi loạn, sa đọa khi cha mẹ chúng đã ly dị với nhau.
15.
Chung thuỷ.
(Trích trong
‘Sợi Chỉ Đỏ’)
Thu Hồ Tử người nước Lỗ, mới cưới vợ
năm ngày đã nhận lệnh đi làm quan ở nước Tần. Năm năm sau, Hồ Tử xin phép về
quê thăm vợ và mẹ. Khi về đến gần nhà, chàng bỗng thấy một thiếu nữ rất xinh
đẹp đang hái dâu bên đường.
Hồ Tử xuống xe, thả lời ong bướm trêu
cợt. Nàng hái dâu thản nhiên như không nghe thấy gì, tay không ngừng bứt lá.
Hồ Tử nói:
-
Này em kia, dùng tận lực mà làm ruộng
cũng không bằng một năm được mùa. Dùng hết sức mà hái dâu, sao bằng gặp được
một người chồng làm quan. Ta đây là quan lớn, vàng bạc sẵn có, nàng mà ưng
thuận lấy ta thì không thiếu thứ gì, chẳng cần hái dâu cho vất vả tấm thân!
Người thiếu nữ ấy vẫn giữ thái độ dửng
dưng, nhìn ông quan với ánh mắt đầy khinh bỉ.
Hồ Tử về nhà lạy mẹ. Khi vợ chàng ra
gặp thì Hồ Tử choáng váng mặt mày, vì vợ chàng chính là thiếu nữ hái dâu lúc
nãy. Chàng hổ thẹn vô cùng, lúc ấy nàng mới dạy cho chàng một bài học:
-
Chàng đi làm quan năm năm mới về. Đáng
lẽ chàng phải vội vã về thăm mẹ, gặp vợ, thế mà chỉ thấy một người đàn bà ở dọc
đường, không biết người ta chồng con thế nào đã ngừng lại trêu ghẹo, không nhớ
gì đến mẹ, cũng chẳng thiết gì tới vợ. Quên mẹ thì bất hiếu, ham sắc thì lòng
dâm, tính hạnh nhơ thì bất nghĩa, bất nghĩa thì trị dân chúng bất minh, người
như thế sao đáng gọi là quan giỏi chồng quí được!
Câu
chuyện trên đây nhắc nhở chúng ta về sự chung thủy vợ chồng mà Tin Mừng hôm nay
xác định lại. Đó là luật đơn hôn và vĩnh hôn trong bậc hôn nhân: “Lúc khởi đầu
cuộc sáng tạo: Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó
người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết
nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”. Ý định
của Thiên Chúa là sáng tạo người nam và người nữ. Việc kết hợp với nhau để trở
thành một huyết nhục “là giao ước tình yêu”. Hiệu quả của giao ước này là “hai
người trở nên một”. Điều này chứng tỏ việc ly dị là bất trung với hôn ước, đồng
thời cũng là sự bất tuân thánh ý Thiên Chúa.
Kể
từ khi Kinh Thánh mở đầu với mối tình keo sơn giữa hai ông bà nguyên tổ, thì
tình yêu vợ chồng đã trở nên duy nhất và chung thủy: “Mình với ta tuy hai mà
một”. Nhưng tình yêu hôn nhân ấy có thể vươn lên tột đỉnh non cao, mà cũng có
thể rơi xuống hố sâu vực thẳm.
Có
những cặp vợ chồng bước đi bên nhau trong đời. Thế mà những bước chân dẫm lên
đời nhau rất đau đớn. Bếp lửa gia đình đã tắt, cuộc vui đã tàn hơi, hành trình
không trọn vẹn, như mơ ước của thiên đường.
Lịch
sử con người đầy dẫy những cuộc chia tay, đổ vỡ, phản bội. Từ thời Môsê dân
chúng đã đòi ly dị, rồi đến vua Đavid chiếm đoạt vợ Uria, sang vua Antipas ly
dị vợ để cưới nàng Hêrôđia. Cứ thế tiếp diễn đến ngày nay. Theo thống kê vào
tháng 12/89 tại các nước Phương Tây, cứ hai đôi hôn nhân thì có một đôi ly dị
và hệ quả là 1/3 trẻ em sống như mồ côi.
Xét
cho cùng luật Chúa cấm ly dị lại là một trợ giúp đắc lực cho các đôi vợ chồng
trong lúc gặp khó khăn, giông tố, biết nhẫn nhịn, kiềm chế để giữ gìn hạnh phúc
gia đình, và lành mạnh hóa xã hội. Đó cũng là một ơn huệ của Bí tích Hôn nhân.
Hình
ảnh “Đức Giêsu ôm các trẻ nhỏ vào lòng và chúc lành cho chúng” là một lời nhắc
nhở các bậc cha mẹ. Nếu “cơm không lành canh không ngọt”, muốn chia tay, hãy
nhìn vào con cái mình, những nạn nhân vô tội. Nếu muốn chọn giải pháp “đường ai
nấy đi” thì hãy nhớ đến những đứa trẻ đáng thương. Chúng sẽ đi về đâu? Thống kê
cho thấy đại đa số thanh thiếu niên phạm pháp là con của những cha mẹ ly tán.
Đức
Gioan Phaolô II trong Tông huấn Gia đình, số 59, có viết: “Phẩm giá và trách
nhiệm của gia đình Kitô hữu, xét như là một Hội thánh tại gia, chỉ có thể sống
được với sự trợ giúp liên lỉ của Thiên Chúa, và sự trợ giúp này sẽ không bao
giờ thiếu nếu người ta biết cầu nguyện khẩn xin với lòng tin cậy và khiêm tốn”.
16.
Suy niệm của JKN.
Tính sư phạm và nhân bản của Thiên
Chúa trong việc lập luật và áp dụng luật
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao
luật Môsê lại cho phép vợ chồng ly dị (x. Mt 5,31; Đnl 24,1) còn Đức Giêsu thì
không? Luật Môsê có phải là luật của Thiên Chúa không? Phải giải thích sao về
sự mâu thuẫn giữa hai thứ luật đều cùng là luật của Thiên Chúa cả?
2. Thiên Chúa
coi hạnh phúc của con người quan trọng hơn luật của Ngài, hay ngược lại? Ngài
lập luật để con người hạnh phúc, hay dựng nên con người để tuân theo luật Ngài?
Luật lệ và con người, cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện?
3. Khi áp
dụng luật Chúa cho người khác, ta nên có thái độ nào? cứng nhắc hay mềm dẻo?
nên vì luật Chúa hay vì hạnh phúc con người hơn?
Suy tư gợi ý:
1.
Bối cảnh của bài Tin Mừng
Các
người Pharisêu hỏi Đức Giêsu về vấn đề ly dị không phải vì họ thắc mắc cần được
giải đáp, mà vì muốn gài bẫy Ngài. Nếu Ngài đồng ý với việc ly dị, thì Ngài tỏ
ra cùng lập trường với người Pharisêu. Và như vậy người Pharisêu có thêm một
đồng minh rất có uy tín về vấn đề này để chống lại chủ trương đối lập. Còn nếu
Ngài không đồng ý, thì nhiều người trong đám đông không chấp nhận. Quan trọng
hơn nữa, Ngài sẽ bị vua Hêrốt thù ghét, vì Ngài tỏ ra cùng phe với Gioan Tẩy
giả, là người lên án ông về tội ngoại tình và đã bị ông giết chết (Mc 6,17-28).
Đây cũng là điều mà bọn Pharisêu mong muốn cho Ngài. Vì thế, Ngài trả lời thế
nào cũng đều có lợi cho họ.
Nhưng
Đức Giêsu đã lợi dụng cái bẫy này để mặc khải nền tảng của hôn nhân theo kế
hoạch ban đầu của Thiên Chúa là vợ chồng phải «nhất phu nhất phụ», đồng thời
chỉ ra sự sai trái trong chủ trương của người Pharisêu. Người Pharisêu dựa vào
câu Kinh Thánh sau đây để biện minh cho sự ly dị: «Nếu một người đàn ông đã lấy
vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì
người ấy thấy nơi nàng có điều gì chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly
dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi nhà» (Đnl 24,1). Đức Giêsu đã nhắc đến luật
này trong Cựu Ước và đưa ra luật mới ngược lại: «Luật (Môsê) dạy rằng: Ai rẫy
vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại
trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình»
(Mt 5,31-32).
2.
Bài học về tính sư phạm của Thiên Chúa
Ngài
chủ trương khác với Môsê, nhưng Ngài không đả kích hay chê bai Môsê, mà cho
rằng Môsê đã thích ứng với sự yếu đuối của con người: «Chính vì các ông lòng
chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Vì: nếu ra luật mà
người ta yếu đuối quá không thể giữ được, thì lúc đó luật chỉ gây nên mặc cảm
tội lỗi. Như vậy, thay vì luật nâng đỡ con người, thì lại đạp họ xuống. Nghĩa
là luật trở nên gánh nặng không thể vác nổi cho con người, khiến họ thất vọng
đối với sự công chính và quay về hướng tội lỗi. Vì thế, trong trường hợp đó,
tốt hơn là luật chưa nên đòi hỏi đúng mức. Do đó, luật Môsê đã tỏ ra nhân
nhượng với sự yếu đuối của con người. Thánh Phaolô chủ trương: «Nếu không có
Luật, thì tội không bị kể là tội» (Rm 5,13); và «tội lỗi có mạnh cũng tại có Lề
Luật» (1Cr 15,56). Bởi luật được lập nên vì con người, chứ không ngược lại (x.
Mc 2,27). Đó là quan niệm rất nhân bản về lề luật. Nhưng khi con người đạt được
một trình độ tâm linh cao hơn, thì Đức Giêsu đã nâng cấp lề luật lên một bậc để
đưa con người lên mức độ thánh thiện và hoàn hảo cao hơn, hợp lý hơn, phù hợp
với kế hoạch của Thiên Chúa hơn.
Điều
này cho chúng ta thấy tính sư phạm của Thiên Chúa. Lề luật, giao ước, mặc khải
hay những điều Thiên Chúa dạy dỗ con người không thể là những gì bất biến, mặc
dù Thiên Chúa thì bất biến. Tất cả những thứ ấy không phải vì Thiên Chúa nhưng
vì con người, mà con người thì biến đổi, nên chúng phải thích ứng sao cho phù
hợp với con người. Khi trình độ hay hoàn cảnh của con người thay đổi, thì lề
luật, cũng như những mặc khải hay những điều dạy dỗ của Thiên Chúa đã có trước
đó lâu năm sẽ phải thay đổi cho thích ứng với con người thời đại, đồng thời phù
hợp với «đạo» là nguyên lý không thay đổi của Thiên Chúa hơn. Không thể lấy lề
luật cũ áp dụng cho con người mới được: lề luật cũ, mặc khải cũ, giao ước cũ
phù hợp với con người cũ (thời xưa) chứ không phù hợp với con người mới (thời
nay). Vì thế, cần phải có lề luật mới, mặc khải mới, giao ước mới để phù hợp
với con người mới.
Thánh
Phaolô có nói đến sự lỗi thời của các giao ước, khi đã có một giao ước mới đến
thay thế: «Khi Thiên Chúa nói đến Giao Ước Mới, Người làm cho giao ước thứ nhất
hoá ra giao ước cũ; và cái gì cũ kỹ, lỗi thời, thì sẽ tan biến đi» (Dt 8,13).
Bất kỳ giao ước nào, lề luật nào, mặc khải nào đang hiện hành đều được coi là
tuyệt đối, bất biến, muôn đời không thay đổi. Có như thế con người mới đủ xác
tín để thực hành. Nhưng khi có giao ước, lề luật, mặc khải mới, thì những thứ
cũ đều bị coi là lỗi thời, không phải theo nữa. Cụ thể là luật Môsê mà người Do
Thái xưa coi là tuyệt đối và bất biến, đã trở nên lỗi thời và được thay thế bởi
luật của Đức Giêsu. Và đương nhiên luật của Đức Giêsu cũng là luật cho con
người chứ không phải cho Thiên Chúa.
3.
Hãy «vì con người, chứ không phải vì lề luật»
Đức
Giêsu đã cho thấy kế hoạch nguyên thủy của Thiên Chúa là: «Lúc khởi đầu công
trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn
ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt.
Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên
Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly». Đấy là nguyên lý của Thiên
Chúa cho hạnh phúc con người, ai sống theo như vậy thì sẽ được hạnh phúc. Thật
vậy, trong đời sống vợ chồng, tình yêu và sự hòa hợp là hai yếu tố quan trọng
để đời sống hôn nhân được hạnh phúc. Tình yêu cũng là một yếu tố thuận lợi cho
sự hòa hợp và ngược lại. Tuy nhiên, thiếu một trong hai thì đời sống hôn nhân
không thể hạnh phúc. Dẫu vậy, tình yêu là yếu tố quan trọng nhất. Nhưng chỉ có
tình yêu đích thực mới đem lại hạnh phúc, mà tình yêu chân thực tất yếu phải là
tình yêu duy nhất và chung thủy. Một nhà tâm lý nói: «Đã yêu rồi, lại còn yêu
người khác nữa, thì không phải là tình yêu chân thật. Đã yêu, nhưng sau đó lại
không yêu nữa, cũng không phải là tình yêu chân thật». Vì thế, hôn nhân Kitô
giáo đòi hỏi hai phối ngẫu một tình yêu đích thực, nghĩa là tình yêu duy nhất
và trọn đời. Điều đó thật hợp lý và phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Và Giáo
Hội không chấp nhận ly dị là điều hợp lý.
Tuy
nhiên, việc áp dụng luật của Thiên Chúa cũng như luật Giáo Hội thiết tưởng
không nên cứng ngắc. Bài Tin Mừng hôm nay cho ta thấy: chính Thiên Chúa - qua
luật Môsê - cũng đã nhân nhượng sự yếu đuối của con người. Từ nguyên thủy,
Thiên Chúa chỉ dựng nên có một người nam và một người nữ, nghĩa là ngay từ đầu,
trong kế hoạch của Thiên Chúa, đã có luật «nhất phu nhất phụ» rồi. Nhưng trong
luật Môsê, Ngài đã tạm thời chấp nhận việc ly dị, chỉ vì tâm linh của con người
còn quá thấp kém, không thể giữ nổi: «Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông
Môsê mới viết điều răn đó cho các ông». Như thế ta thấy mặc dù Thiên Chúa là
Thiên Chúa, nhưng Ngài cũng rất là nhân bản, Ngài thông cảm với những yếu đuối
của con người, và Ngài đã tỏ ra chú trọng đến hạnh phúc của con người nhiều hơn
cả việc đòi hỏi con người phải theo đúng kế hoạch của Ngài. Ngài đặt nặng hạnh
phúc của con người hơn cả lề luật của Ngài: bởi lề luật được lập nên vì con
người, chứ không phải con người được dựng nên vì lề luật (x. Mc 2,27). Lề luật
dù có thánh thiêng tới đâu cũng là vì con người, nhằm phục vụ cho lợi ích hay
hạnh phúc của con người, chứ không ngược lại. Lề luật là phương tiện, nhưng con
người mới là mục đích. Con người thánh thiêng hơn các lề luật rất nhiều, cho dù
lề luật có do chính Thiên Chúa lập nên đi nữa, vì «con người là hình ảnh của
Thiên Chúa» (St 1,26.27; 9,6), chứ lề luật không phải là hình ảnh của Ngài, dù
là luật do chính Ngài thiết lập.
Vì
thế, các mục tử, khi áp dụng luật Chúa cho giáo dân của mình, thiết tưởng cũng
phải biết sử dụng quyền mà Chúa trao: «Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước
Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới
đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy» (Mt 16,19;
18,18). Chúa trao cho mình cả hai quyền, nhưng nhiều khi mình chỉ chuyên sử
dụng có một quyền, chỉ biết «cầm buộc» mà không biết «tháo cởi». Tội nghiệp cho
giáo dân ngu dốt của mình! Xin hãy cân nhắc một cách sáng suốt giữa hai sức
nặng cần phải tôn trọng: hạnh phúc của con người và luật của Thiên Chúa. Có
những trường hợp phải hy sinh luật Chúa cho hạnh phúc của con người! Trong ngôn
ngữ dân gian có câu: «Nếu đất không chịu trời, thì trời nhiều khi đành phải
chịu đất». Đó cũng là sự mềm dẻo trong việc áp dụng luật cho người khác, một
đặc tính phải có của tình thương. Thiên Chúa còn mềm dẻo và nhân nhượng trong
việc áp dụng luật đối với con người, tại sao con người lại quá hà khắc với
nhau?
Cầu nguyện
Lạy
Cha, xin cho con ý thức rằng con người thánh thiêng hơn lề luật, và lề luật
được lập nên vì hạnh phúc của con người. Lề luật chỉ là phương tiện, con người
mới là mục đích. Xin đừng để con quá «vị luật» đến nỗi lúc nào cũng sẵn sàng hy
sinh con người cho việc áp dụng lề luật. Xin cho con biết nhân ái và bao dung
khi áp dụng luật Chúa cho tha nhân.
17.
Tìm lại sự ngạc nhiên – Lm. Mark Link.
"Biết ngạc nhiên như trẻ thơ là
trọng tâm mọi lời cầu nguyện và tôn thờ"
Mấy năm trước, tờ Chicago Tribune (Diễn
đàn Chicago) có đăng bài viết của Amelia Bahl nhan đề: "Đi đạo với Bà
Tôi". Bài được viết theo thể đối thoại như sau;
Ricky hỏi:
-
Thưa bà tại sao cây lại thay lá vào
cuối mùa hạ?
Bà trả lời:
-
Vì những lá cây cũ mèm xơ xác rồi, cần
mặc lấy lá mới.
-
Những lá mới từ đâu đến vậy?
-
Từ sâu dưới lòng đất, bà mẹ thiên
nhiên luôn bận bịu chuẩn bị lá mới cho chúng
-
Bà ơi, có bao giờ bà thấy bầu trời
giống như một hồ nước úp lộn ngược không?
-
Và những áng mây bé tí kia trông giống
những chiếc thuyền buồm phải không nào?
-
Cháu thắc mắc chả hiểu chúng dương
buồm đi về đâu?
-
Có lẽ đi dự "hội mây" đó
cháu.
-
Chúng sẽ làm gì ở đó nhỉ?
-
Có lẽ để quyết định xem trái đất có
cần mưa thêm không?
-
Chà! Chúa lo lắng tất cả mọi sự, bà
nhỉ?
«««
Bà
của Richy thực là một gương mẫu hoàn hảo cho người trưởng thành. Bà không bị
mất cảm thức của mình về những điều ngạc nhiên của trẻ thơ. Biết ngạc nhiên là
biết nhìn thấy sự vật giống như trẻ con nhìn thấy chúng. Là biết đặt ra những
câu hỏi tương tự như trẻ con thường hỏi. Biết ngạc nhiên là biết nhìn mọi sự
như chúng ta nhìn chúng lần đầu tiên, nghĩa là nhìn chúng với sự tươi mát lần
đầu, toả ra sự mới mẻ từ đôi tay tạo dựng của Chúa khi chưa hề bị tì ố. Biết
ngạc nhiên là biết nhìn vào một cánh đồng cỏ ướt đẫm sau cơn mưa và nhận ra
những dấu chân của Chúa trên đó. Biết ngạc nhiên là biết nhìn vào đôi mắt trẻ
thơ và nhận ra dấu tay của Thiên Chúa ẩn chứa trong đó.
Có một ví dụ thú vị cho vấn đề chúng
ta đang bàn được thấy trong quyển sách của Charles Colson tựa đề "Born
Again" (Tái sinh). Colson một trong những người bị kết án trong vụ
Watergate của tổng thống Nixon vào thập niên 1970. Về sau, ông đã trở lại đạo
Chúa. Sự trở lại này đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn ông mãi đến
hôm nay.
Trong một đoạn sách của mình, Colson
đưa chúng ta lùi về quá khứ 20 năm trước để tham dự một mùa hè thú vị mà ông đã
trải qua cùng hai cậu nhóc, con của ông. Ông đã mua cho chúng một chiếc thuyền
buồm dài 14 bộ (quãng 4 mét rưỡi) và đem nó ra hồ. Khi cả ba đến bờ hồ, một cơn
mưa phùn nho nhỏ của mùa hạ bắt đầu lất phất. Tuy nhiên điều này chẳng làm cho
họ quan tâm.
Sau khi thuyền rời khỏi bến, họ chỉ
còn nghe thấy tiếng nước vỗ mạn thuyền và tiếng chiếc buồm sũng nước vỗ phành
phạch trong gió. Cậu bé Chris, 10 tuổi được giao nhiệm vụ điều khiển chiếc
thuyền. Khi nhận thức được vai trò thuyền trưởng của mình, gương mặt cậu bé
trông mới rạng rỡ làm sao! Ánh mắt cậu toé lên nỗi hào hứng khi biết rằng cậu
đang nắm trong tay quyền điều khiển sức mạnh của gió. Nhìn vào khuôn mặt và ánh
mắt cậu con trai, Colson hết sức sửng sốt. Lúc đó, ông tâm sự với Chúa và ông
vẫn còn nhớ mãi những lời tâm sự ấy:
"Lạy Chúa, xin cảm tạ Ngài đã ban
cho con đứa con trai này, đã ban cho con giây phút kỳ dịêu này. Chỉ cần nhìn
vào đôi mắt đứa nhỏ này, đời con đã thoả mãn rồi. Trong tương lai, dù có xảy
đến điều gì cho dẫu ngày mai con có phải chết, thì đời sống của con kể cũng đã
mãn nguyện lắm rồi. Tạ ơn Chúa".
Sau đó, Colson ngạc nhiên vì điều ông
vừa làm. Trước đó, ông đâu có tin rằng Thiên Chúa có bản ngã, thế mà trong ngẫu
hứng, ông lại thưa chuyện với Ngài như một Đấng có bản ngã. Trong niềm vui vào
giây phút ấy, tim ông đã vượt khỏi trí não để biểu lộ lời xác nhận sự hiện hữu
của một Thiên Chúa hữu ngã. Qua chính những lời cầu nguyện của mình, ông khám
phá rằng dù ông chưa tự chứng minh được là có Thiên Chúa, ông vẫn có thể thưa
chuyện với Ngài. Làm sao ông có thể thưa chuyện với Ngài được nếu không phải là
tận thâm sâu tâm hồn ông vẫn ý thức rằng có ai đó đang lắng nghe ông từ một nơi
nào đó. Thực thế, vào buổi trưa hè mưa phùn ấy, Colson đã khám phá ra cho mình
điều mà các tác giả linh đạo luôn nhất trí với nhau, đó là: Sự ngạc nhiên là
trọng tâm mọi lời khẩn nguyện và thờ phụng.
Điều
này dẫn chúng ta đến với sứ điệp thực tiễn của bài Phúc Âm hôm nay.
Nếu
chúng ta cảm thấy khó cầu nguyện và thờ phụng Chúa, có thể là vì chúng ta đã để
cho cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình bị khuất sau đám mây: có lẽ vì
chúng ta đã không nghiêm chỉnh nghe theo lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm hôm
nay; "Ai không biết đón nhận nước Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao
giờ vào được đó đâu".
Có
lẽ chúng ta đã đánh mất cảm thức ngạc nhiên như trẻ con của mình về vũ trụ. Có
lẽ từ lâu lắm rồi chúng ta không còn đi bộ dạo chơi và trò chuyện với con cháu
chúng ta.
Nhà
viết tiểu thuyết hiện đại John Updike đã cảnh cáo chúng ta điều có thể xảy ra
nếu chúng ta không còn biết tiếp xúc với những thành viên trẻ trong gia đình
Thiên Chúa như sau:
"Nếu
người lớn chúng ta không biết tiếp tục trò chuyện với trẻ con, chúng ta sẽ
không còn là những con người nữa, mà chỉ còn là những cổ máy biết ăn và biết
kiếm tiền". Nhà thừa sai vĩ đại Albert Schweitzer nói: "Bi kịch của
cuộc sống chính là chúng ta đã chết mặc dù vẫn mang tiếng là đang sống".
Khi cảm thức ngỡ ngàng trước vũ trụ bắt đầu lịm tắt thì ý thức về cầu nguyện và
phụng thờ cũng bắt đầu tàn lụi theo. Đây là một lời rất quan trọng và thực tiễn
mà Chúa Giêsu dành cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay.
Để
kết thúc xin mời anh chị em yên lặng hiệp ý cầu nguyện cùng tôi; "Lạy
Chúa, xin giúp chúng con giữ mãi được cảm thức ngạc nhiên trước cuộc sống, đừng
để chúng con trở nên mù loà không nhìn thấy dấu tay Chúa trong vũ trụ quanh
chúng con, đặc biệt nơi ánh mắt và khuôn mặt của các trẻ nhỏ.
Xin
giúp chúng con biết luôn tiếp xúc với những trẻ em chung quanh chúng con, để
đừng bao giờ quên lời Chúa Giêsu truyền dạy; "Kẻ nào không tiếp nhận nước
Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ chẳng bao giờ vào được đó".
Xin
hãy giúp chúng con tái khám phá ra cách nào để ngạc nhiên ngõ hầu nhờ đó chúng
con có thể tìm lại được cách thức cầu nguyện và phụng thờ Chúa.
Chúng
con nguyện xin nhờ Chúa Giêsu là Đấng hằng sống hằng trị cùng Chúa và Chúa
Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời."
18.
Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux.
VẤN ĐỀ LY DỊ (10,1-12)
Nhiều
lời khuyên bảo liên quan đến đời sống cộng đồng đã được Chúa Giêsu thực tại
Caphanaum, xứ Galilê (9,33). Chặng đường dài của xứ Palestin, từ bắc tới nam đã
được vượt qua (c. 1a). chúa Giêsu đang tiến bước hướng về Giêrusalem. Giờ đây
Ngài đang tiếp xúc với cư dân mạn nam Palestin, ở hai bên bờ sông Giođan; ở
phía tây là Giuđê, những đồng hương Do Thái với Ngài, phía đông là người xứ
Pêrê (hiện là Giocđani) thuộc dân ngoại. Maccô muốn chứng tỏ Chúa Giêsu đang
rao giảng cho tất cả mọi người không phân biệt. Đám đông đang hiện diện và thế
là Chúa Giêsu dạy dỗ họ (c. 1b). Ở đây có đủ mọi điều kiện cần thiết để sứ điệp
của Ngài đạt đến quảng đại quần chúng.
Đám
biệt phái lại mon men đến gần Ngài (c. 2a). Lần tranh luận cuối cùng giữa Chúa
Giêsu và những kẻ nhiệt tình bảo vệ luật Môsê này đã xảy ra cách đây khá lâu
(8, 11-12). Cũng giống nhu lần đó, lần này Maccô cũng ghi rõ những người Do
Thái được số một này đến chất vấn Chúa Giêsu “để thử Ngài” (c. 2b). Cần phải
nhớ rằng đàng sau những từ này, tác giả Phúc Âm muốn gợi lại thái độ của những
người Israel vào thời còn ở hoang mạc lúc xuất hành từng biểu lộ sự cứng lòng
với Môsê và với chính Thiên Chúa: “Ho thử thách Giavê bằng cách nói rằng:
“Thiên Chúa có ở giữa chúng ta hay không?”. Còn ở đây thì họ giương bẫy gài
Chúa Giêsu về vấn đề ly dị: “Chồng có được phép rẫy vợ không?” (c. 2c). Vào
bước ngoặt của Kỷ nguyên Kitô giáo vấn đề “rẫy” vợ được các giáo sĩ Do Thái
tranh luận sôi nổi. Hai trường phái nổi tiếng đối đầu đưa ra những ý kiến ngược
nhau. Một bên là giáo sĩ Hillel, thuộc dạng biệt phái tự do thì chấp nhận rất
nhiều lý do cho phép vợ chồng có thể chia tay nhau. Ngược lại, giáo sĩ Shamamai
thuộc khuynh hướng nghiêm khắc thì chỉ chấp nhận một số giới hạn các trường hợp
được phép “rẫy” vợ. Bởi vì theo luật Do Thái, chỉ đàn ông mới có quyền ly dị vợ
mình, nên Shammai theo cách thức của mình, đã bảo vệ cho phụ nữ trong một xã
hội thượng tôn nam giới. Chính vì được đánh giá là một bậc thầy tăm tiếng nên
Chúa Giêsu đã được hỏi ý kiến xem Ngài ủng hộ phe nào. Bẫy gài giương ra rất rõ
ràng: Người ta sẽ đánh giá Ngài thuộc loại theo chủ thuyết “buông thả” hay chủ
thuyết “gò bó” trong vấn đề này. Họ muốn đóng khung Ngài hoặc trong phe này
hoặc trong phe kia. Trước tiên Chúa Giêsu dẫn đối phương về tận nguồn gốc cuộc
tranh luận: “Môsê đã răn dạy các ông điều gì?” (c. 3). Câu hỏi này dễ trả lời
(c.4). Lời quy chiếu của đám biệt phái về luật Môsê cho thấy thói quen xưa kia
xem việc ly dị là hợp pháp (x. Đnl 24,1). Luật pháp Israel (bắt nguồn từ
Môsê?). Chỉ nhân đạo hóa chút ít tập tục này bằng cách buộc người chồng phải
trao cho người vợ mà ông ta ly dị một tờ giấy xác nhận. Tuy nhiên Chúa Giêsu
không phải là không biết rằng bởi vì theo chủ trương buông thả quá độ nên
truyền thống Do Thái đã phạm tội thiên bị bênh vực cho riêng cánh đàn ông. Người
đàn ông có thể rẫy vợ mình kể cả vì những lý do không đáng gì hết! Một câu
trong sách Đệ nhị luật đã mở đường cho tất cả mọi sự lạm dụng: “Khi một người
nam cưới vợ, nếu cô này chẳng được ơn trước mặt người chồng bởi người ấy thấy
nơi nàng có điều gì tỳ vết, thì người ấy thảo một tờ giấy ly dị, trao vào tay
cô ta và đuổi cô ta về lại nhà cha mẹ...” (Đnl 24,1). Sử gia Do Thái Flarius
Joseph (thế kỷ I sau Công nguyên) xác nhận là phe Hillel đã dùng đoạn này trong
Torah để ủng hộ quyền tự do ly dị của cánh đàn ông. “Kẻ nào muốn lỵ dị, vì bất
cứ lý do gì (có vô số lý do mà đàn ông có thể nại ra) thì cứ viết ra một chứng
thư xác nhận (Cổ văn Do Thái 4,8,23).
Ý
thức được hiện có đủ lối cắt nghĩa về vấn đề này Chúa Giêsu liền bắt đầu cách
phục hồi luật Môsê vào đúng mực độ của nó: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá
nên ông Môsê mới viết điều răn đó” (c. 5). Chủ đề dân được chọn cứng lòng không
nghe lời Chúa đầy dẫy trong luật sư. Các tiên tri đã không ngừng tố cáo tấn
kịch này của Israel, một dân tộc luôn cố “chống lại ý Chúa”. Chính Chúa Giêsu
cũng đã phàn nàn về “sự cứng lòng này” của đám biệt phái là những đại biểu ưu
tú của dân (x. 3,5). Tuy nhiên, Chúa Giêsu dự tính xoáy sâu hơn vào tư tưởng
Ngài. Cũng như trước đây khi đề cập đến luật Môsê về ngày Sabat (x. 2,23-28).
Lần này Ngài cũng đi trở vượt qua truyền thống Do Thái để trở về với ý định ban
đầu của Đấng Tạo Hóa (c. 6). Chúa Giêsu đi trở ngược dòng thời gian: khá lâu
trước thời kỷ Đệ nhị luật, sách Sáng thế mà Ngài trưng dẫn (St 1,27) đã trình
bày sự kết hợp nam nữ như là nền tảng vững chắc để xây dựng cộng đoàn nhân lọai
chứ không phải để phá hủy. Được tạo dựng theo hai phái tính nam, nữ nên cả đàn
ông lẫn đàn bà “đều là hình ảnh của Thiên Chúa”. Sự cao cả của việc hô kết hợp
với nhau là ở đó. Chúa Giêsu đưa ra yêu muốn Đấng Tạo Hóa về sự kết hợp này:
“Vì thế... cả hai sẽ thành một xương thịt” (c. 7-8). Quy chiếu này rõ ràng ám
chỉ trình thuật thứ hai về cuốn tạo dựng (St 2,24). Bản văn này rất súc tích.
Người nam và người nữ được kêu gọi xây dựng nên một tế bào gia đình độc lập. Sự
kết hợp giữa họ tạo thành một đơn vị nền tảng, phát sinh do sợi dây tình yêu và
tình dục. Được xây dựng trên ý định của Thiên Chúa nên đơn vị nguyên sơ này là
một thực thể cần phải bảo vệ bằng mọi giá. Chúa Giêsu nhấn mạnh điều đó: “Vậy
sự gì Thiên Chúa đã phố hợp, loài người không được phân ly!” (c. 9).
Như
vậy, Chúa Giêsu đã đưa ra một tầm nhìn cao vời bất ngờ cho câu hỏi trên. Như
sau này thánh Gioan nhận thức, nơi đây quả có một vị tiên tri còn cao cả hơn
Môsê, nhà lập luận của dân riêng Chúa (Ga 1,17). Với quyền năng Thiên Chúa tràn
đầy, Đức Mêsia đã đến phục hồi vũ trụ vào đúng trật tự Đấng Tạo Hóa muốn. Nếu
có tham gia vào cuộc tranh luận đang diễn ra giữa các bậc khôn ngoan (các giáo
sĩ ưu tú lúc bấy giờ) Chúa Giêsu cũng không để mình bị rơi vào bẫy của các nhà
luật học Do Thái cũng như vào chủ nghĩa vị luật của họ. Ngài xác nhận mạnh mẽ ý
nghĩa nguyên thủy mà Thiên Chúa đã ban cho mối dây liên kết hôn nhân. Con đường
Ngài mở ra mang tính cách đòi hỏi hơn các quan điểm nhân loại rất nhiều. Sự
nghiêm khắc của con đường ấy không ngừng hạch sách các bạn hữu thân tình của
Ngài. Như thường lệ, chính các môn đệ cũng ngỡ ngàng về lời dạy khắt khe của
Thầy mình. Họ lợi dụng đám Biệt Phái rút lui để hỏi riêng Chúa Giêsu tại nhà
(c. 10). Người ta có thể nghĩ rằng họ đai diện cho cộng đoàn Kitô hữu sơ khai
đang đương đầu với vấn đề ly dị nơi các thành viên của mình và đang tìm cách
xác định tư tưởng của Chúa Giêsu về những trường hợp khó khăn, và Chúa Giêsu đã
trở lại cho các môn đệ bằng một công thức đầy kinh ngạc (c. 11-12). Người ta có
thể nêu ra hai nhận xét. Thứ nhất, ở đây liên quan đến việc tái hôn của những
người đã ly dị, chứ không phải là một sự ly thân. Tình trạng này bị xem là
“ngoại tình”. Đây là từ ngữ nghiêm khắc được các tiên tri dùng để bêu riếu
Israel về việc họ “tương giao” với Thiên Chúa (x. Hs 1-3). Thứ hai là các từ
ngữ được dùng cho thấy đàn bà cũng có quyền ly dị giống như đàn ông. Vào thời
Chúa Giêsu, trường hợp này không hề có Thầy luật pháp Do Thái. Điều này cho thấy
trường hợp này phát xuất từ luật Rôma. Khi soạn Phúc Âm cho các Kitô hữu đến từ
gốc ngoại giáo, hẳn Maccô đã phải để ý đến các luật lệ Rôma.
Hai
nhận xét trên đủ cho thấy rõ tư tưởng vững chắc của Chúa Giêsu về đề ly dị đã
được Giáo Hội sơ khai áp dụng vào những tình cảnh mới. Vì thế không ngạc nhiên
gì khi tư tưởng ấy vẫn còn áp dụng mãi đến ngày hôm nay. Giáo Hội luôn luôn
phải đương đầu với những trường hợp hôn nhân bị “đứt đoạn” và vấn đề tái hôn.
Dù sao trong tất cả những trường hợp này, người ta hãy nhớ rằng tư tưởng của
Chúa Giêsu không xây dựng trên quan điểm “vị luật”, và Ngài luôn luôn rộng mở
đón nhận những kẻ bị khai trừ và những người tội lỗi (x. 2,15-17).
CHÚA GIÊSU VÀ CÁC TRẺ EM (10,13-16).
Giữa
lúc Chúa Giêsu đang dạy dỗ về phương cách để trở thành môn đệ Ngài (từ 8,34)
thì Maccô lại lồng vào quang cảnh ngắn gọn sống động đầy tươi mát này: Chúa
Giêsu tiếp đón các trẻ em. Trước đây, Chúa Giêsu đã từng biểu lộ quan tâm của
Ngài đối với thế giới trẻ em (9,35-37). Để được đầu với những cao vọng nhóm
Mười Hai, lúc đó Ngài đã tự xem mình là tôi tớ cho tất cả mọi người. Ở đây sứ
điệp này được lặp lại với trọng điểm nơi khác một tí. Chúa Giêsu tỏ cho các môn
đệ biết trẻ em là gương mẫu trong một trong việc tiếp nhận Nước Thiên Chúa.
Người
ta mang trẻ em tới cho Ngài để được Ngài chạm vào chúng (c. 13a). không ghi rõ
tuổi tác nhưng đây chắc chắn không phải là những đứa bé xíu. Từ ngữ Hy Lạp được
dùng ở đây ám chỉ lứa tuổi từ 7-14. Cũng không thấy xác định rõ lý do tại sao
“người ta” muốn Ngài chạm vào đứa trẻ em này. Thực sự rất nhiều lần chúng ta đã
thấy nhiều người, nhất là các bệnh nhân chen nhau đến với Chúa Giêsu để chạm
được vào vị lương y này (2,10; 5,25-28). Tuy nhiên các trẻ em này không phải là
những bệnh nhân. Phải chăng những kẻ mang chúng đến với Chúa Giêsu chỉ muốn
Ngài ban cho chúng một cử chỉ chở che?
Người
ta rất cảm thấy chướng trước thái độ rõ ràng thù nghịch của các môn đệ (c.13b).
Đây là một cử chỉ xua đuổi mạnh mẽ. Tại sao vậy? Vào thời Chúa Giêsu, người lớn
thường có thái độ khinh thường trẻ em. Lũ trẻ lóc nhóc, hay đòi ăn này chẳng
được xem trọng trong một thế giới đói nghèo. Thêm vào đó, đám trẻ thuộc cộng
đoàn Do Thái này lại chưa biết gì đến lề luật Môsê nữa chứ. Cho nên người ta
xem chúng như những kẻ “sống ngoài lề luật”. Chúng bị liệt vào hàng “bị khai
trừ” giống như các bệnh nhân, phụ nữ và nô lệ v.v... Sự khinh bỉ mà các bạn
thân của Chúa Giêsu biểu lộ đối với đám trẻ em làm Ngài xúc động mạnh: “Thấy
thế, Ngài bực mình” (c.14a). Maccô từng nêu lên tia nhìn giận dữ của Chúa Giêsu
(3,5) tuy nhiên chưa bao giờ ông tỏ cho chúng ta biết lý do sâu xa Ngài tức
giận. Còn bây giờ thì lý do đã rõ (c.14b): đám trẻ em, cũng như những kẻ bị
“khai trừ” khác, vẫn có chỗ trong Vương Quốc của Chúa Giêsu.
Cùng
với Chúa Giêsu, Vương Quốc Thiên Chúa đã đến: đó là một trong những đề tài nổi
bật được Chúa Giêsu ưa thích nhất trong lời công bố của Ngài (x.1,14-15). Giờ
đây Ngài chỉ rõ đám trẻ em và “những kẻ giống như chúng” là những người được
nhận lãnh Vương Quốc này. Tại sao vậy? Chúa Giêsu thường dùng lời nói tán dương
“tinh thần của trẻ em”. Hẳn người ta đã nói nhiều đến sự ngây thơ vô tội của
trẻ em. Người ta đã biến chúng thành kiểu mẫu luân lý mặc dù vẫn không phải
luôn luôn cảnh giác được chiếc bẫy mà những kẻ trưởng thành khờ khệch thường
hay rơi vào đó là một thứ “ấu trĩ chủ nghĩa” nào đó. Khoa học hiện đại, đặc
biệt là khoa tâm lý chiến đấu đã cho thấy một cái nhìn bớt thơ mộng hơn về trẻ
em. Một nhà thông thái như Frend chẳng hạn còn dám nói trẻ em là một thứ “tà
vạy đa hình”: một sinh vật tàng ẩn, dưới dạng mầm non, mọi xấu xa của người
lớn.
Vì
thế không nên lý tưởng hóa việc Chúa Giêsu tiếp đón trẻ em. Nếu Chúa lấy trẻ em
làm gương cho những người lớn bắt chước là bởi vì theo não trạng thời đó, trẻ
em là những kẻ bé nhỏ, nghèo nàn và bị khai trừ. Chúng ta hãy đọc lại: vào thời
Chúa Giêsu trẻ em trước hết là một “kẻ nghèo” bởi chúng hoàn toàn lệ thuộc vào
người khác, đồng thời chúng cũng tỏ ra rất có khả năng lắng nghe và tin cậy,
điều này những người lớn hầu như đã đánh mất! Chính thái độ sẵn sàng nơi trẻ em
đã biến chúng thành tấm gương cho các tín hữu. Chúa Giêsu đã long trọng quả
quyết điều này (c.15). Người ta nhận thấy rõ đây là nỗi ưu tư mà Chúa Giêsu
không ngừng điều chỉnh cho tầm nhìn của các môn đệ bởi vì họ là những kẻ Ngài đang
huấn luyện để đảm nhận trách nhiệm trong Giáo Hội. Họ phải bỏ đi những tham
vọng “làm cha làm chú” (9,33-34) và phải trở nên “bé nhỏ” để có thể đón nhận
Vương Quốc Thiên Chúa với lòng khiêm nhu và cởi mở tối đa.
Đoạn
cuối trình thuật dễ thương này cho thấy Chúa Giêsu đã chuyển từ lời nói qua
hành động. Ngài ôm đám trẻ và chúc lành cho chúng (c.16). Việc Chúa Giêsu trìu
mến đám trẻ em – ít được yêu thương và thường bị ruồng bỏ này – mang đầy ý
nghĩa sâu sắc. Theo Thánh Kinh cử chỉ “chúc lành” các giáo sĩ Do Thái thường
làm, ám chỉ việc hiệp thông nhờ hành vi ban ân sủng của Thiên Chúa. Ở đây có
nghĩa là Chúa Giêsu mở rộng Nước Thiên Chúa cho đám trẻ em.
Mọi
cử động trong quang cảnh trên hé mở cho thấy những gì đang xảy ra trong Giáo
Hội của Maccô. Một số môn đệ nắm giữ quyền hành, chắc chắn đang bị cám dỗ muốn
“ngăn cấm” không cho những kẻ bé nhỏ, nghèo khó, bị khai trừ, gia nhập vào đời
sống của cộng đoàn. Tác giả Phúc Âm đặt lại trước mắt các vị ấy cử chỉ tiên tri
của Chúa Giêsu: với tư cách là tôi tớ mọi người, Chúa Giêsu muốn người ta để
cho những kẻ bị thế gian khinh dể “đến với Ngài”; và không chừng những kẻ này
lại được mời gọi vào sống thân mật với Thiên Chúa... trước tiên đấy!
19.
Chú giải của Noel Quesson.
Đàn
ông và đàn bà! Tại sao trai và Gái! Tại sao? Tính dục? Tại sao? Ai tình, khoái
lạc, âu yếm, hôn nhân. Tại sao?
Tại
sao cả thế giới sống động: thực vật, thú vật hay con người, đều được tạo ra
theo "mẫu" này? Tại sao sinh vật phải gồm có hai “giống”, chia ra làm
hai phần “đực và cái” khác nhau, nhưng được tạo ra “cho nhau". Tư tưởng
con người không ngớt giao động về vấn đề này giữa phái Janséniste, và những
người mệnh danh là lạc quan phóng khoáng, loại người đòi được tự do tình dục và
ca tụng lạc thú như mục đích của con người.
Luân
lý Kitô giáo trong những thế kỷ vừa qua, đã quá thổi phồng mặc cảm tội lỗi
quanh vấn đề "Thanh sạch " và “không Thanh sạch”.
Tâm
trạng con người hiện nay có khuynh hướng từ bỏ mọi khuôn mẫu và ca ngợi sự
phóng khoáng: “Hãy làm điều bạn muốn làm, hãy làm những gì vừa ý bạn".
Đức
Giêsu nghĩ gì về vấn đề này?
Có
mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi rằng: "Thưa Thầy, chồng có
được phép rẫy vợ không?".
Đó
là câu hỏi đầy ác ý. Họ đặt ra để bắt bí Đức Giêsu, một câu hỏi nhằm gài bẫy.
Dù Chúa có trả lời như thế nào đi nữa, thì Người cũng phải lãnh chịu một phần
công luận, vì đây là vấn đề nóng bỏng và chạm đến những gì thâm sâu nhất của
con người. Không ai có thể trung lập trước câu hỏi, vì phải chấp nhận tình
trạng này hay tình trạng kia một cách cụ thể. Những vết thương lòng rất khó
lành. Câu hỏi do người Pharisêu nêu lên là đáng ngạc nhiên, vì giải đáp đã do
luật đưa ra rồi. "Một người nào lấy vợ và đã cưới hỏi rồi, nếu xảy ra là
vợ không được vừa mắt chồng nữa, vì chồng gặp thấy nơi nó có điều gì thô bỉ,
vậy chồng đã viết cho nó lá thư, mà trao tay nó và đã thải hồi khỏi nhà
mình" (Đnl 24).
Câu
trả lời của luật pháp thật là rõ ràng: Sự ly dị là hoàn toàn hợp luật, vào thời
Đức Giêsu, cũng như thời nay. Chúng ta cũng ngạc nhiên về sự giống nhau giữa
những tình huống của các Kitô hữu đầu tiên và tình huống ngày nay mà chúng ta
biết: Trong hầu hết các nước trên thế giới đều có luật chấp nhận ly dị và tái
giá.
Người
đáp: "Thế ông Môsê đã răn dạy các ông điều gì? Họ trả lời ông Môsê đã cho
phép viết chứng thư ly dị mà rẫy vợ”.
Trả
lời như thế thật là đẹp đẽ để giúp ta giữ thái độ khiêm nhường trước- những câu
hỏi khó khăn. Những kiểu chú giải Kinh thánh "mang tính truyền thống"
(nghĩa là chủ trương phải hiểu Kinh thánh theo nghĩa đen từng chữ một) thực sự
chỉ đạt đến những điều ngây ngô và trẻ con. Hiển nhiên là mạc khải luôn tiệm
tiến, và luân lý, giáo huấn cũng tiến bộ theo thời đại. Môsê, phần lớn chỉ lấy
lại "luật theo tục lệ" của thời ông, mà thời đó chế độ đa thê và ly
dị đã nằm trong truyền thống có cơ sở vững chắc. Vì không thể làm hơn được, ông
đã cố sửa chữa những sở thích tùy tiện, bằng cách "hợp thức hóa",
"quy định" và thiết lập một; “thủ tục". Ong muốn giới hạn sự ác
bằng cách buộc phải theo thủ tục rõ ràng. Nhưng cũng như mọi luật lệ, luật này
có thể được áp dụng rộng rãi hay là ngược lại: Có hai cách giải thích đối
nghịch nhau vào thời Đức Giêsu. Thực vậy vấn đề là giải thích chữ "việc
làm gây đụng chạm nặng" trong điều luật mà theo ý của Rabbi Shammai, phải
hiểu từ này ám chỉ một tình trạng "vô luân trầm trọng" mà thôi, như
thái độ ngoại tình. Trong khi trường phái kém khắt khe hơn của Rabbi Hillel đã
hiểu rộng hơn, như đã lỡ để mất một bữa ăn bị cháy khét (Mischna Gittin IX 10).
Qua
thí dụ này, chúng ta có thể kết luận rằng: "Tất cả những gì hợp pháp,
không hẳn là hợp luân lý". Người Kitô hữu sống trong một thế giới đa dạng.
Họ phải đủ sức chịu động để sống theo lương tâm của mình, dù điều đó có thể đưa
tới một thái độ anh hùng theo Tin Mừng nào đó, đi ngược lại đa số. Nhưng nói
cho cùng, đa số những đòi hỏi của Tin Mừng không yêu cầu chúng ta làm như thế
cả sao? Thái độ bất bạo động không phải là một sự điên rồ sao? Tha thứ vô điều
kiện, không phải là một lệch lạc sao? Tự nguyện sống nghèo không phải là một
điều không tưởng sao? Chính trong bối cảnh ly dị trở thành hợp pháp như thế, mà
Đức Kitô sắp bày tỏ lập trường đối với thời đại của mình.
Đức
Giêsu nói với họ: "Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết
điều răn ấy”.
Lần
này, đáng lẽ Người ta không nên dịch từ Hy Lạp “Sclérocardia" mà nên
chuyển từ này sang tiếng Pháp thì mọi người sẽ hiểu: "Vì chứng bệnh
"sơ cứng tim" của các người, mà Môsê đã cho phép ly dị". Đây là
một chứng bệnh tim rất phổ biến, sự chai cứng của quả tim, sự cứng lòng. Lạy
Chúa, xin dạy cho chúng con biết thực sự yêu thương Người kia (người phối
ngẫu). Có một áp lực xã hội rất mạnh (hãy làm như mọi người). Ngày nay cũng như
thời xưa, thúc đẩy chúng ta chỉ cần những mối "tương quan lực lượng".
Thí dụ; Thống kê chứng minh rằng ba phần tư những trường hợp ly dị trong năm
năm đầu của cuộc hôn nhân xảy ra đối với những đôi vợ chồng đã ăn ở với nhau
trước khi cưới. Khước từ "hôn nhân", khước từ "những tiêu chuẩn
xã hội", không phải là bằng chứng của sự trưởng thành! Sống chung, ăn ở
với nhau mà không làm đám cưới, thực ra điều đó có nghĩa gì? 'Không phải đó là
giữ cảm tình ở một mức thiếu niên, và làm cho nó không vượt khỏi trình độ sơ
đẳng sao? Không phải đó là giữ một lối thoát. Khước từ dấn thân thể sự, không
"tự trao hiến" có nguy cơ cứ ở mãi trong tương quan thống trị giữa
hai Người phối ngẫu sao? Tôi luôn phải làm chủ! Tôi phải tỏ ra tự do!
Coi
chừng bệnh "chai tim" của bạn đó, Đức Giêsu đã cảnh giác như thế. Có
cái gì đang núp ẩn dưới vẻ thân mật tự chủ, tự do? Tình yêu cho người kia, hay
là tình yêu của tình bạn?
Còn
thuở ban đầu, lúc tạo thành vạn vật, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có
nữ.
Luật
căn bản của lứa đôi cần phải kiếm tìm, luôn nằm trong lãnh vực đó: Sự bổ túc
của hai phái tính là một "sáng tạo", một "Thánh ý" của
Thiên Chúa, được ghi khắc trong bản chất thâm sâu của người nam và người nữ.
Một
lần nữa, Đức Giêsu không diễn tả bằng những từ luân lý được phép và bị cấm dù
trên thực tế những điều này dẫn đến những thái độ rõ ràng. Người đưa ra một lý
tưởng. Chúng ta không thể coi việc áp dụng luật là đủ. Đối với Đức Giêsu, cần
phải có chiêm ngưỡng "dự án của Chúa về người nam và người nữ".
Trước
những quan điểm xã hội, những luồng tư tưởng khác nhau, những chủ truơng
"làm như mọi người", chúng ta quan niệm thế nào về tình yêu hôn nhân?
Có phải quan niệm như một minh tinh điện ảnh nào đó? Như trong một bài hát nào
đó trên máy thu thanh, dành cho những người bình dân? Đức Giêsu nói.. Hãy coi
chừng! Trước tất cả những điều này, Thiên Chúa đã có một quan niệm về tình yêu
và đã diễn tả quan niệm này trong sự sáng tạo của Người.
Vì
thế người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một
xương một thịt. Như vậy họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt.
Như
vậy, Đức Giêsu đã tham chiếu bản văn sách Sáng Thế mà chúng ta đọc trong bài
đọc một hôm nay. Chúng ta sẽ không bao giờ khám phá hết những kỳ diệu trong lời
khẳng định phi thường của Sách Thánh: "Chúng ta hãy tạo con người theo
hình ảnh của chúng ta, theo họa ảnh của chúng ta". Và Thiên Chúa đã tạo
con người theo hình ảnh của Người, theo hình của Thiên Chúa, Người đã tạo ra
con người nam và nữ (St 1,26-27). Không phải tình cờ mà bản văn Kinh thánh đã
chuyển từ số ít ra số nhiều. Thiên Chúa là một trong ba ngôi, đã tạo nhân loại
theo hình ảnh của Người, "nhiều” mà chỉ là “một". Từ nhiều người,
khác nhau sâu xa, làm nên một. Đó là nguồn gốc của sự hiệp nhất trên thế gian,
ngay từ lúc đầu cuộc sáng tạo.
Lạy
Chúa, Chúa đã cho chúng con vinh quang của Chúa. Chúa đã tạo người nam và người
nữ theo hình ảnh của Chúa. Oi, một giao ước mầu nhiệm thay! Lạy Chúa, là tình
yêu chia sẻ, xin cho dân của Người nghị lực yêu thương.
Vậy
sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly.
Chỉ
có Thiên Chúa sống động trong ta, mới có thể làm được những gì mà chúng ta coi
như bất lực. Bí tích hôn phối đúng là một hồng ân, một quà tặng nhưng không, để
chữa bệnh con người không biết yêu thương như Thiên Chúa của giao ước hằng
thương yêu. Sự bất khả phân ly của hôn nhân như Đức Giêsu đã tuyên bố, đi ngược
lại chuẩn mực thông thường của chúng ta, không thể trở nên dịp cho chúng ta xét
đoán hay lên án những gia đình gặp khó khăn: Chúa Kitô không kêu gọi chúng ta
làm việc đó! Sự bất khả phân ly là lời thề hứa sâu sắc nhất của tình yêu.
Lạy
Chúa Giêsu, xin cảm tạ Chúa đã nói lại điều đó cho chúng con, dù đó là điều khó
sống theo, nhưng nhờ sự thương khó và thập giá Chúa, xin cứu giúp tình yêu
chúng con. Xin làm cho chúng con biết yêu thương như Chúa.
Ai
rẫy vợ mà lấy người khác, là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ
chồng để lấy người khác thì cũng phạm tội ngoại tình.
Sự
đối xung hoàn hảo của hai kiểu nói song hành này, rất có ý nghĩa.
Đối
với Đức Giêsu, sự hỗ tướng cần trọn vẹn: Người nam và Người nữ đều có quyền lợi
và nghĩa vụ như nhau. Trong thế giới mà các tương quan thống trị đang thắng thế
như hiện nay, Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải biết yêu thương người phối ngẫu.
Và Người cho chúng ta "sức mạnh" để yêu thương như thế, dù có gặp khó
khăn.
Sự
hiệp nhất đời sống lứa đôi là do Chúa muốn, không phải chỉ từ "lúc đầu”,
không phải "một thiên đường đã mất" trong quá khứ. Đây là đường đi
hằng ngày mà nơi đó "Thiên đàng đã tìm lại" đang xây dựng, nơi cuối
cùng chúng ta sẽ trở nên hình ảnh của Thiên Chúa "Ba" mà là
"Một".
20.
Chú giải của Fiches Dominicales.
HỌ
CHỈ LÀ MỘT XƯƠNG MỘT THỊT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1)
Từ cuộc tranh luận "khi đi đường”
Đã
hai lần (và sẽ còn một lần thứ ba nữa) Đức Giêsu loan báo cuộc khổ nạn của
Người. Trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, Người
tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan.
B.Standaert
nhận xét như sau: "Việc Maccô ghép giáo huấn luân lý của ông vào cuộc khổ
nạn của Đức Kitô thật đáng suy nghĩ: Thay vì lên lớp dạy luân lý, hoặc trích
luật này luật nọ trong Kinh Thánh, ông- nhìn nhận chỉ có một nền tảng duy nhất
cho đời sống luân lý Kitô giáo là việc noi gương Đức Kitô. Những trình thuật
quan trọng loan báo số phận của Con người thật ra không gì là khích lệ, nhưng
chính từ đinh mệnh Đức Kitô, ta sẽ hiểu được những đòi hỏi thực tế của Kitô
giáo. Do đó, ta sẽ không còn ngạc nhiên thấy đời sống đó có những đòi hỏi quyết
liệt, không khoan nhượng”. Ông nhận xét tiếp: "Theo Maccô trình bày, noi
gương Đức Kitô là chìa khoá của tất cả đời sống luân lý. Sự tương cận giữa đời
sống Đức Giêsu và đời sống người Kitô hữu mà Maccô đề ra vẫn là gương mẫu cho
nỗ lực tìm hiểu đời sống Kitô giáo. Maccô mời gọi ta suy nghĩ lại cả những thực
hành, hoạt động, bi kịch và ước vọng của ta dưới ánh sáng duy nhất của tấn thảm
kịch mà Đức Giêsu đã trải qua: "bị nộp vào tay người đời, họ sẽ giết chết
Người, và ba ngày sau khi bị giết chết Người sẽ sống lại" (9. 31)
("L'evangile selon Marc", Cerf, trang 78-79 và 81).
Có
lẽ ở Giuđê, nơi dân cư là người Do thái sống chung quanh thủ đô Giêrusalem, Đức
Giêsu chạm trán với nhóm Pharisêu. Nhóm này muốn thử thách Người nên đặt vấn
nạn về vấn đề ly hôn: "Chồng có được phép rẫy vợ không?" Vào thời đó,
việc chồng rẫy vợ trên nguyên tắc được mọi người chấp thuận. Sách Đệ Nhị luật
24,1 có viết: "Nếu một người đàn ông đă lấy vợ và đã ăn ở với nàng rồi, mà
sau đó nàng không đẹp lòng người ấy nữa, vì người ấy thấy nơi nàng có điều gì
chướng, thì sẽ viết cho nàng một chứng thư ly dị, trao tận tay và đuổi ra khỏi
nhà”? Người ta chỉ bất đồng ý kiến về lý do mà người đàn ông viện ra để rẫy bỏ
vợ mình.
] Phái bảo thủ, muốn bênh vực quyền lợi cho
người đàn bà trong xã hội do đàn ông thống trị, (môn phái Shammai) chỉ nhận duy
nhất một lý do là hợp pháp: đó là thói lăng loàn bất trị của người vợ, hoặc một
hành động khiến có thể nghi ngờ lòng chung thuỷ của nàng.
]
vì lý do nào, thí dụ
như vô sinh, hiếm muộn, gặp được người đàn bà khác mình thích hơn, hoặc chỉ vì
nấu ăn dở.
Nhóm
Pharisêu tự hỏi xem Đức Giêsu sẽ gia nhập phái nào? Nhưng họ cũng biết quá rõ,
cho dầu chọn môn phái nào, Người cũng bị sập bẫy. Vì người ta sẽ chụp mũ Người
là “cứng cỏi” hoặc là "buông thả" đối với Lề Luật thánh, và như vậy,
không ai còn tin giáo huấn của Người.
Nhưng
Đức Giêsu không rơi vào cạm bẫy của họ. Người trả lời bằng một câu hỏi:
"Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? Khi dùng từ truyền dạy, Người
buộc những người chất vấn phải nhìn nhận công khai, đó không phải "một
lệnh truyền" của Môsê, mà chỉ là một nhân nhượng vì lý do nhân đạo. Họ thú
nhận: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ”.
Bấy
giờ, Đức Giêsu nại đến một quyền lực cao trọng hơn quyền lực của Môsê trong
việc cắt nghĩa Lề luật. Như những lần tranh luận về ngày Sabát, ở đây, Đức
Giêsu cũng nại đến ý Thiên Chúa từ thuở ban đầu: "Lúc khởi đầu công trình
tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ, vì thế người đàn ông sẽ
"lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt”.
Việc rẫy vợ, dù rằng có trao tờ ly hôn chỉ là một nhân nhượng, nó không huỷ bỏ
ý muốn ban đầu của Thiên Chúa, và tính cách vĩnh viễn của hôn ước. "Vì thế
họ sẽ thành một xương một thịt. Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người
không được phân ly".
J.
Hervieux giải thích: "Ra đời trước sách Đệ nhị luật rất lâu, sách Sáng Thế
mà Chúa trích dẫn, đã trình bày sự phối hợp người nam người nữ như nền tảng
vững chắc, trên đó nhân loại được xây dựng chớ không bị hủy diệt. Con người
được tạo dựng có nam có nữ nên cả hai phái tính đàn ông và phụ nữ đều là
"hình ảnh của Thiên Chúa". Sự cao quí của việc kết hợp nam nữ là ở
đó. Đức Giêsu rút ra kết luận mà Đấng Tạo Dựng mong muốn: "Vì lý do cả hai
thành một xương một thịt". Lời lẽ thật hết sức rõ rệt. Đàn ông và phụ nữ
ơn gọi làm nên một tế bào gia đình tự lập. Đôi uyên ương họ tạo lập trở nên một
đơn vị nền tảng, phát xuất do mối tương quan tình yêu và giới tính. Cái đơn vị
hàng đầu này, được tạo lập do ý định của Thiên Chúa, là một thực thể cần được
bảo vệ bằng mọi giá. Đức Giêsu cương quyết nhắc nhủ điều đó "Vậy sự gì
Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" ("L'evangile
de Marc", Centurion, trang 141-142).
2)
Đến cuộc chuyện vãn thân mật "ở nhà".
Thay
vì bị mắc vào âm mưu của các luật sĩ, Đức Giêsu cương quyết tái xác định ý
nghĩa sự phối hợp hôn nhân do Thiên Chúa sắp đặt tự nguyên thuỷ; Người không
làm luật, Người chỉ đề nghị một thái độ đạo đức cơ bản: đó là đặt mình vào kế
hoạch của Đấng tạo thành. Người mở ra con đường khắt khe hơn quan điểm thường
tình của người phàm. Cũng thế, vừa khi trở về nhà, (nơi biểu trưng cho những
giáo huấn mà Đức Giêsu dạy dỗ riêng các môn đệ) các môn đệ thay thế cho nhóm
Pharisêu đặt câu hỏi: Và Đức Giêsu trả lời họ: "Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác,
là phạm tội ngoại tình, đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác cũng
phạm tội ngoại tình”.
Ta
thấy, khi chuyển lời Chúa đến địa chỉ mới là những Kitô hữu gốc ngoại giáo,
thuộc thế giới Hy-lạp, nơi mà luật pháp cho phép phụ nữ cũng như đàn ông được
quyền tự ý ly dị, Maccô cũng để ý đến hoàn cảnh đặc biệt này. Ông lần lượt nêu
ra trường hợp người chồng, rồi người vợ, lìa bỏ người bạn đời của mình; dù cho
phía nào gây ra cuộc phân ly cũng sẽ có "ngoại tình" nếu đi lấy người
khác, nghĩa là nếu kéo theo cuộc phối hợp khác.
J.Hervieux
nhận xét: "ý kiến cứng rắn của Đức Giêsu về vấn đề ly dị được áp dụng cho
Giáo Hội sơ khai trong bồi cảnh mới mẻ. Đem áp dụng cho Giáo Hội hôm nay cũng
không là điều đáng ngạc nhiên. Giáo Hội luôn phải đối mặt với những trường kết
hợp vợ chồng bị đổ vỡ rồi tái tạo. Dù sao đi nữa, ta phải luôn nhớ rằng ý kiến
của Đức Giêsu không dựa trên quan điểm “ duy luật” và Người luôn dang rộng tay
đón tiếp những người bị khai trừ và những kẻ tôi lỗi” (Sđd, trang 142).
Tiếp
ngay sau giáo huấn này, là việc một số cha mẹ dẫn con họ đến với Đức Giêsu để
“Người đặt tay trên chúng” và họ chạm phải phản ứng thô bạo của các môn đệ: các
ông thẳng tay đuổi chúng.
Ta
dễ hiểu phản ứng của các môn đệ, nếu ta nhớ rằng vào Đức Giêsu. Trẻ nhỏ thường
bị người lớn khinh thường. Tất cả những chú nhóc chen chúc nhau trong cộng đồng
Do thái đều mù tịt về luật Môsê, chúng bị liệt vào hạng “bị khai trừ”, như bệnh
nhân, phụ nữ và nô lệ.
Bực
tức trước thái độ như thế, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để dạy về thái độ tinh
thần mà người môn đệ của Nước Trời phải có: "Cứ để trẻ em đến với Thầy,
đừng ngăn cấm chúng, vì nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng”.
"Nếu Vị Tôn Sư nêu trẻ nhỏ ra làm gương mẫu cho người lớn bắt chước, chính
là theo quan niệm của thời đó, vì chúng nhỏ bé, nghèo khó, bị khai trừ. Như đã
nói, vào thời Đức Giêsu, trẻ nhỏ là "người nghèo": chỉ là một sinh
vật hoàn toàn lệ thuộc vào người khác. Nhưng trẻ nhỏ cũng là dấu chỉ sống động
cho khả năng biết lắng nghe và tin tưởng. Chính khả năng dễ hoà nhập của trẻ
nhỏ là một tấm gương cho các tín hữu. Đức Giêsu long trọng quả quyết điều
đó(câu 15). Bởi vậy, ta nhận ra rằng Đức Giêsu luôn lo lắng để uốn nắn cái nhìn
của các môn-đệ, mà Người đang đào tạo để trở thành những người lãnh trách nhiệm
trong Hội Thánh. Họ cần phải bỏ tính tự cao tự đại (9,33-34), phải trở nên nhỏ
bé để đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn khiêm nhượng và rộng mở " (Sđd
trang 142).
BÀI ĐỌC THÊM.
1)
Do bản tính yếu đuối của con người.
"Do
bản tính yếu đuối của con người" đó là câu nói cửa miệng để biện minh cho
luật lệ và quy chế. Không có nó, con người sẽ đi về đâu? Có lẽ xã hội sẽ do
những người mạnh nhất, hoặc những kẻ xấu nhất thống trị. Luật lệ là điều cần
thiết dù ở thời đại nào, hay trong nền văn minh nào cũng vậy. Đó là lời thú
nhận về những giới hạn của thân phận con người.
Trả
lời cho nhóm Pharisêu có ý gây hấn và đầy ác tâm, Đức Giêsu vạch một luống cày
để gieo hạt giống cho sự sống vĩnh cửu. "Chính vì lòng chai dạ đá của các
ông mà Môsê đã ban hành luật như thế, kể cả luật hôn nhân, để các ông khỏi chìm
xuống sâu hơn, đúng hơn để các ông giữ được độ cao và biết đâu, các ông có thể
sẽ muốn vươn lên cao hơn”.
Một
cái nhìn đầy tin tưởng đối với nhân loại! Người không lợi dụng điểm yếu của họ.
Người khơi dậy điều tốt nhất nơi họ, điều làm cho một tạo vật nên giống hình
ảnh của Đấng Sáng Tạo, tức lương tri và trí tuệ mở rộng vô biên đến tận cõi
trời vĩnh phúc.
Như
vậy, Đức Giêsu dẫn đối thủ của Ngài về với ý định đầu tiên mà cũng là cuối cùng
của Thiên Chúa, đó là con người sống hoà hợp với nhau và với vũ trụ. Thiên
đường tại thế và Nước Trời. Giữa hai thế giới ấy, những yếu đuối của con người
đọc coi là "sự cứng cỏi của con tim”, là trái tim từ chối đập theo nhịp
của Thiên Chúa. Là từ chối hoạt động cho sự hòa hợp trong vũ trụ theo ý muốn
của Đấng Sáng Tạo".
2)
Những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân: đường lối khả thi để xây dựng cuộc sống
gia đình.
Để
xem xét mục vụ về bí tích Hôn nhân, chúng ta phơi thực quan tâm đến những điều
kiện thực tế hiện nay của đời sống lứa đôi: cuộc sống tạm bợ, bấp bênh về tương
lai, bất ổn về đời sống lứa đôi không ngừng gia tăng, đổi thay của thân phận
phụ nữ, những vấn đề do việc điều hoà sinh sản đặt ra. Khi để ý đến những điều
kiện này, ta có thể trình bày những đòi hỏi của Tin Mừng về hôn nhân như một
đường lối khả thi để xây dựng đời sống lứa đôi và gia đình. Một đường lối khả
thi, nghĩa là đi theo nó, đôi vợ chồng không bị bỏ rơi nhưng, nhờ sự nâng đỡ
của một nhóm hay một cộng đoàn Kitô hữu, chính họ được mời gọi để hiểu rằng Lời
Đức Kitô dạy về tình yêu nhân loại đáp ứng được điều sâu thẳm nhất mà cũng mỏng
giòn nhất nơi con người".
0 nhận xét:
Đăng nhận xét