Chúa Nhật 33 Thường Niên
|
Phúc Âm
Máccô 13:24-32
24 "Nhưng trong những ngày đó, sau
cơn gian nan ấy, thì mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng,
25 Các ngôi sao từ trời sa xuống, và các
quyền lực trên trời bị lay chuyển.
26 Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy
quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.
27 Lúc đó, Người sẽ sai các thiên sứ đi,
và Người sẽ tập họp những kẻ được Người tuyển chọn từ bốn phương về, từ đầu
mặt đất cho đến cuối chân trời.
28 "Anh em cứ lấy thí dụ cây vả mà
tìm hiểu. Khi cành nó mềm ra và trổ lá, thì anh em biết là mùa hè đã đến gần.
29 Cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy
ra, anh em hãy biết là Người đã đến gần, ở ngay ngoài cửa rồi.
30 Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ
chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra.
31 Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy
nói sẽ chẳng qua đâu.
32 "Còn về ngày hay giờ đó thì không ai biết được, ngay cả các thiên sứ trên trời hay người Con cũng không, chỉ có Chúa Cha biết mà thôi. |
Chi
Tiết Hay
·
Chương 13 Phúc Âm thánh Máccô gồm những bài
giảng từ biệt của Đức Giêsu, thích hợp để dùng trong một Chúa Nhật gần cuối
năm Phụng Vụ.
·
Đại ý đoạn Phúc Âm này trở nên rõ ràng nhờ
cách cấu tạo của nó. Có hai phần chính. Trong mỗi phần, đại ý của đoạn văn
được kèm thêm những ý tưởng tương tự.
·
Trong phần một, ý chính ở trong câu 26
"Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến"
được cả vũ trụ loan truyền (mặt trời, mặt trăng, các vì sao, các tầng trời -
câu 24-25, trái đất và bầu trời - câu 27). Đức Giêsu dùng những hình ảnh này
để ám chỉ toàn thể vũ trụ chứ không tiên đoán một biến cố riêng rẽ nào.
·
Trong phần hai, ý chính "hãy tỉnh thức vì
không ai biết rõ ngày giờ nào" cũng được kèm thêm hai dụ ngôn. Dụ ngôn
thứ nhất là cây vả trong câu 28. Dụ ngôn thứ hai từ câu 33 đến câu 37 sau
đoạn Phúc Âm hôm nay - nói về người chủ nhà đi xa trao quyền lại cho các đầy
tớ - và cũng để kết thúc chương này.
·
Bài giảng cuối cùng trong Phúc Âm Máccô tuy
khác nhưng mang những ý nghiã hoà hợp với các bài giảng cuối cùng trong các
sách Phúc Âm kia. (Gioan 14-17: Hãy hiệp nhất trong tình yêu thương; Mt
28:16-20, Luca 24:36-49 và CVCTD 1:6-11, hãy đi rao giảng Tin Mừng). Cách
chuẩn bị cho ngày trở lại vinh quang của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng để
mọi người hiệp nhất trong tình thương yêu.
|
Một
Điểm Chính
Toàn thể vũ trụ sẽ loan báo ngày Đức Giêsu trở lại trong
vinh quang. Không một ai được biết trước ngày đó, vì thế mọi người phải sẵn sang
|
Suy
Niệm
1. Tôi
có chờ đợi và hy vọng ngày Đức Giêsu trở lại trong vinh quang không? Tôi phải
làm thế nào?
2. Thái
độ trái ngược với sẵn sàng chờ đợi và hy vọng là thái độ nào? Tôi có thái độ
đó chăng?
3. Việc
chuẩn bị đón Đức Giêsu trở lại lần sau hết của tôi có bao gồm việc rao giảng
Tin Mừng của Ngài để đem lại sự hiệp nhất trong tình yêu thương chăng?
Lời Chúa: Đn 12,1-3; Dt 10,11-14.18; Mc 13,24-32
1.
Ngày phán xét
Vũ trụ này đã có
một lúc khởi đầu thì cũng sẽ có một lúc kết thúc. Con người ta có sinh thì cũng
phải có tử. Kể từ khi con người xuất hiện trên mặt đất cho đến hôm nay, thời
gian kéo dài hằng trăm triệu năm. Thế nhưng, thời gian ấy chẳng là gì cả so với
khoảng thời gian vô biên của Thiên Chúa, như lời thánh vịnh đã nói: Ngàn năm
đối với Chúa cũng chỉ là như một thoáng mây bay.
Tuy nhiên, có điều
chúng ta cần lưu ý, đó là nhân loại này luôn luôn được chia làm hai giới tuyến,
tin và không tin. Đón nhận và từ
chối lời Ngài. Hai giới tuyến này vẫn tồn tại và tồn tại mãi cho đến ngày tận
cùng của trời đất. Đúng thế, trong ngày tận cùng của trời đất Đức Kitô sẽ xuất
hiện, không phải với thân phận nô lệ, nhưng với tất cả quyền năng của Ngài để
phân xử ngay cả những tư tưởng thầm kín nhất của chúng ta.
Chính lúc ấy, hai
giới tuyến này mới thực là rõ rệt. Một bên thì sáng ngời và hạnh phúc vì họ là
những người đã trung thành gắn bó với Chúa… Còn một bên thì khổ đau và tuyệt
vọng, bởi vì họ đã từng là những kẻ thù, chống đối và phỉ báng Chúa.
Lúc bấy giờ, tất cả
sẽ bị phơi bày, tất cả sẽ bị tỏ lộ. Tâm hồn họ tối tăm hơn cả đêm đen, kinh
hoàng hơn cả vực thẳm. Họ sẽ nghe thấy phán quyết tối cao của Chúa: Ta hằng yêu
thương và chăm sóc cho ngươi như người mẹ chăm sóc và yêu thương đứa con của
mình, thế mà ngươi đã chối bỏ Ta và từ khước tình thương của Ta. Thì giờ đây,
hình phạt đời đời sẽ chờ đón ngươi.
Trong khi đó những
người lành thì hân hoan vui sướng, bởi vì họ đã trung thành gắn bó với Chúa,
không bao giờ họ bán rẻ đức tin của mình cho những đam mê và những khát vọng
trần tục. Bấy giờ Chúa sẽ phán với họ: Hỡi những người đã được Cha Ta chúc
phúc, hãy đến lãnh lấy phần gia nghiệp Nước Trời đã được chuẩn bị cho các ngươi
từ trước muôn đời. Bấy giờ cánh cửa Nước Trời được mở rộng để họ tiến vào, ở đó
họ sẽ được hưởng niềm hạnh phúc tuyệt vời với Chúa, như lời thánh Phaolô đã
diễn tả: Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nghiệm
được những điều Thiên Chúa dành cho những kẻ yêu mến Ngài.
Từ những điều vừa
trình bày, chúng ta hãy xác tín rằng Nước Trời mới là quê hương đích thật, mới
là nơi cư ngụ vĩnh viễn của chúng ta. Còn trần gian thì chỉ là quán trọ mà
chúng ta là những lữ khách. Bởi đó, không được từ khước một hy sinh, một gian
khổ nào. Trái lại, bằng mọi giá phải chiếm cho được quê hương Nước Trời.
Hãy nghĩ đến Nước
Trời mỗi khi chúng ta gặp phải những cám dỗ và thử thách. Hãy nghĩ đến Nước
Trời giữa những vất vả và mệt mỏi, giữa những buồn phiền và cay đắng của cuộc
sống thường ngày. Hãy nghĩ đến Nước Trời trong những lúc nghèo túng, bệnh tật
và cô đơn. Bởi vì Nước Trời trổi vượt trên mọi thực tại trần gian.
Đừng bán quyền
trưởng nam bằng một bát cháo. Đừng bán cuộc sống vĩnh cửu bằng một vài giây
phút vui thú chóng qua. Đời sống thì ngắn ngủi. Danh vọng và vui thú thì chóng
tàn. Việc quan trọng chúng ta cần phải làm trước tiên, đó là tìm kiếm Nước Trời
như lời Chúa đã nói: Sau cuộc sống trần gian này, thì hạnh phúc Nước Trời đang
chờ đón chúng ta, thế nhưng chúng ta đã làm được những gì để chúng ta xứng đáng
được Chúa đón nhận vào chốn quê hương vĩnh cửu?
2.
Sống sót.
Cuốn phim “Biến cố xảy ra trên nhịp cầu” kể
lại câu chuyện sau đây: Có một tên tử tội bị treo cổ trên một nhịp cầu. Người
ta thòng sợi dây từ đỉnh cầu xuống và quấn vào cổ anh. Khi mọi sự đã sẵn sàng,
viên chỉ huy ra lệnh, người ta sẽ kéo lên và sợi dây xiết vào cổ anh. Thế
nhưng, một điều kỳ lạ đã xảy ra. Sợi dây bị đứt và anh rớt xuống dòng sông. Anh
bắt đầu lặn, rồi bơi vào một đám lục bình. Anh xúc động vì vẻ đẹp của những
chiếc lá xanh và của những bông hoa tim tím. Một lúc sau, anh nhìn thấy chú
nhện giăng tơ. Và một lần nữa, anh lại xúc động trước vẻ đẹp của chiếc màng
nhện và những giọt nước bám vào đó, lấp lánh như những hạt kim cương. Bỗng
nhiên, đám lính đứng trên cầu bắn xối xả. Anh cố gắng lướt tới dưới làn mưa
đạn. Cuối cùng anh cũng bơi được vào bờ và hoàn toàn kiệt sức. Khẽ mở mắt, anh
trông thấy một cánh hoa dại. Anh thầm nghĩ: Mọi sự sao mà đẹp thế. Nhưng liền
sau đó, anh nghe thấy tiếng đạn rít qua bụi rậm. Thế là anh đứng lên, cắm cổ
chạy một mạch về đến nhà bình an. Anh gọi tên vợ và nàng vội vã mở cởng và dang
tay đón anh.
Ngay khi họ vừa ôm nhau, thì nhà đạo diễn
mang chúng ta trở lại với nhịp cầu. Và chúng ta không thể nào tin được vào mắt
mình khi thấy xác anh ta đang đong đưa với sợi dây xiết chặt vào cổ. Thì ra anh
đã chết. Chi tiết này làm cho mọi người sững sờ. Thế là mọi nỗ lực trốn chạy và
mọi cơ may được sống sót của anh chỉ là sản phẩm thuần tuý của trí tưởng tượng
mà thôi. Anh mơ thấy mình được sống lần thứ hai và anh cảm nhận sự sống ấy bằng
đôi mắt hoàn toàn mới lạ. Lần đầu tiên anh cảm thấy thế gới này quả là tuyệt
hảo. Lần đầu tiên anh cảm thấy cuộc sống là một món quà quý giá. Phải chi anh
được sống sót thì chắc hẳn anh đã sống cuộc đời mới này một cách khác thường
biết bao.
Thế nhưng đâu là
chủ đích của nhà đạo diễn. Ông muốn nhắn gởi gì với chúng ta? Theo tôi nghĩ,
người tử tội trong câu chuyện chính là mỗi người chúng ta, bởi vì một ngày nào
đó chúng ta sẽ chết. Tuy nhiên chúng ta lại không biết mình sẽ chết lúc nào?
Cái chết thì chắc chắn nhưng giờ chết thì bấp bênh vô định, nhưng rồi một lúc
nào đó nó sẽ đến với chúng ta, như đã đến với người tử tội.
Bài Phúc Âm hôm nay
mời gọi chúng ta suy nghĩ đến thời khắc chúng ta sẽ phải gặp Chúa, vào giây
phút cuối cùng của cuộc đời, cũng như của vũ trụ vật chất này. Liệu vào lúc ấy,
chúng ta có đến với Chúa bằng đôi tay chất đầy công nghiệp là những hành động
bác ái hay không? Nếu như phải tính sổ cuộc đời với Chúa, thì chúng ta đã sử
dụng những nén bạc Ngài trao gởi như thế nào? Không giống như người tử tội,
chúng ta có được cơ may còn sống để chuẩn bị cho giây phút định mệnh ấy. Bởi
đó: Hãy sống giây phút hiện tại cho dù hiện tại có vắn vỏi, nhưng lại thật quan
trọng vì nhờ nó mà chúng ta sẽ chiếm lấy được niềm hạnh phúc Nước Trời.
3.
Suy niệm của Jean Yves Garneau.
“CHÚNG CON CHỜ ĐỢI CHÚA ĐẾN TRONG VINH
QUANG”
Bí mật của Chúa Cha.
Chúa Kitô đã đến ở
giữa chúng ta, và Ngài sẽ trở lại. Ngài sẽ trở lại. “Trên mây trời với quyền uy
và vinh quang lớn lao”. Biến cố đặc biệt này sẽ được đánh dấu bởi những hiện
tượng trong vũ trụ. Nó sẽ trùng hợp với một cuộc biến đổi vũ trụ. “Mặt trời sẽ
trở nên tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng nữa, tinh tú sẽ rơi xuống…”.
Những hiện tượng này –không nên hiểu theo mặt chữ- Không muốn ám chỉ về một
thiên tai, nhưng là một thời điểm quyết định trong lịch sử nhân loại.
Khi nào chuyện đó
sẽ xẩy ra? Người ta luôn luôn tự đặt câu hỏi này. Chúa Giêsu gạt qua tất cả các
giả thiết. Không người nào biết được ngày đó! Bản thân Ngài cũng không biết!
Chỉ mình Chúa Cha biết. Và đây là bí mật của Ngài.
Ngày của sự thật và công bình.
Vả lại điều quan
trọng không phải biết lúc nào Chúa Giêsu quang lâm, nhưng là chú ý đến những gì
sẽ xẩy ra lúc đó. Ngày ấy sẽ là ngày tập họp lớn lao: “Con người sẽ sai thiên
thần tập họp những người được chọn, từ khắp bốn phương trời”. Đó sẽ là ngày của
sự công bình và sự thật: “Những kẻ khôn ngoan sẽ chiếu sáng như ánh quang của
bầu trời… Những kẻ công chính sẽ chiếu sáng như các vì sao…”. Đó sẽ là ngày
phán xét: Kẻ lành sẽ được thưởng, kẻ thất trung sẽ bị loại trừ. Lòng mỗi người,
mà Thiên Chúa thấu suốt, sẽ được phơi bày ra. Những kẻ đã sống vì Thiên Chúa sẽ
được dẫn tới bên Ngài; Những kẻ chối từ Ngài sẽ bị ruồng bỏ.
Sự phong phú của thời gian đang trôi qua.
Không phải để làm
cho người ta sợ mà Chúa Giêsu loan báo ngày Ngài quang lâm sẽ là ngày phán xét,
nhưng để giúp mỗi người ý thức về tầm quan trọng của thời gian đang trôi qua.
Ngày phán xét sẽ là
ngày tỏ rõ và nhìn nhận những gì đã có. Ngày từ bây giờ, chúng ta tạo nên tương
lai của chúng ta. Những gì chúng ta sống trong thời gian này định đoạt những gì
chúng ta sẽ sống vào ngày tận thế. Mỗi giây phút, mỗi ngày mang một ý nghĩa lớn
lao hơn ta tưởng. Mỗi giay phút gìn giữ chúng ta bên cạnh Thiên Chúa làm cho
chúng ta gần Ngài hoặc xa Ngài. Chính ngày này qua ngày nọ, khi nhìn chúng ta
sống, mà Thiên Chúa hình thành nên sự phán xét về mỗi người trong chúng ta.
Giữa hôm nay và ngày tận thế sẽ có sự liên tục.
Giá trị của sự trung thành.
Do đó những gì
chúng ta làm hoặc không làm, những câu xin vâng hoặc những lời từ chối đối với
Thiên Chúa hàng ngày đều có một tầm quan trọng lớn lao. Những sự trung thành
của chúng ta –lớn và nhỏ, những cố gắng của chúng ta để sống lương thiện, công
chính và ngay thẳng trong một thế giới thường bất công và gian tà, lòng kiên
trì của chúng ta để giáo dục con cái cách tốt nhất có thể được, những khi chúng
ta tha thứ cho những kẻ đã làm chúng ta bị tổn thương, những lần chúng ta đọc
kinh sốt sắng, những khi chúng ta bố thí, khi chúng ta cố gắng chu toàn công
việc hằng ngày, những khi chúng ta sẵn sàng quan tâm đến tha nhân, đón tiếp họ.
Tất cả đều chuẩn bị chúng ta cho ngày Thiên Chúa phán xét.
“Chúng con mong chờ Chúa quang lâm…”.
Hơn chúng ta, các
Kitô hữu sơ khởi đã biết sống hướng mắt và hướng lòng về ngày quang lâm của
Chúa Kitô. Vì họ xác tín rằng ngày ấy sẽ đến nhanh, nên họ đã cố gắng sống mỗi
giây phút trong sự trung thành tuyệt đối đối với Chúa Kitô. Ý thức về ngày Chúa
quang lâm và tâm quan trọng của nó đã mai một đi với thời gian. Bây giờ người
ta sống ngày qua ngày mà không bận tâm lắm về ngày cuối cùng. Uổng thật! Nếu
sống nhiều hơn trong sự mong chờ Chúa, người ta sẽ sống mãnh liệt hơn. Mỗi ngày
sẽ có giá trị hơn đối với chúng ta.
Trong mỗi Thánh lễ,
sau khi bánh và rượu được thánh hiến để trở thành Mình và Máu Chúa Kitô. Chúng
ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc
Chúa sống lại cho tới khi Chúa lại đến”. Chúng con mong chờ Chúa trở lại. Ước
gì đây không chỉ là những lời nói, nhưng là một thái độ sâu xa quyết định cách
sống của chúng ta và mang ý nghĩa cho tất cả cuộc đời chúng ta.
4.
Chúng ta sẽ nghe và nhìn trên thiên đàng.
(Trích trong ‘Mở Ra Những
Kho Tàng’ – Charles E. Miller).
Ludwig Van Beethoven là một tác giả vĩ đại
của mọi thời. Trong lúc ông vẫn còn đang tạo ra những kiệt tác thì ông cảm thấy
mình dần dần mất đi thính giác, ông không còn nghe thấy. Sau khi ông đã trở
thành hoàn toàn điếc, ông sáng tác ra bản giao hưởng số 9. Ông đã không nghe
một nốt nào. Một số người nào đó nói những thiên tài thì bất tử bởi vì công
trình của họ. Họ tin rằng Beethoven đang sống trong âm nhạc của mình.
Shakespeare thì ở trong vở kịch của mình và Edison ở trong phát minh của mình.
Beethoven biết tốt hơn. Khi ông sắp chết, ông nói: “Tôi sẽ nghe nhạc ở trên
trời”. Ông ta nói rất đúng.
Chúng tôi tin rằng Beethoven bây giờ đang
nghe, không chỉ nghe những tác phẩm của chính mình, nhưng là âm nhạc của vị
thầy vĩ đại là chính Thiên Chúa của ông. Beethoven đã được đặc ân hiệp nhất với
các thiên thần và các thánh để ca bài ca vui mừng vô tận. Shakespeare biết rằng
tất cả những lời trong tác phẩm của ông chỉ là một tiếng vang mờ nhạt với Lời
đời đời được nói bởi Cha trong cõi đời đời. Lời đó chính là Con Thiên Chúa.
Edison liều lĩnh phát mình ra ánh đèn điện nhưng bây giờ ông đã tắm trong ánh
sáng rực rỡ của thị kiến vinh phúc. Bây giờ ông hiểu rằng chân lý trong sách
bài đọc từ sách Đanien. Nền tảng của sách đó là dân Israel đã bị chiếm đóng bởi
Syrie, họ cố áp đặt trên người Do Thái một ngôn ngữ ngoại quốc, một nền văn hóa
và tôn giáo ngoại quốc. Nhiều người Do Thái đã chọn lấy cái chết hơn là bị bắt
cầm tù. Tác giả của sách đã hiến tặng môt sứ điệp hy vọng cho những người sống
sót bởi tuyên bố: “Người khôn ngoan sẽ chiếu sáng… những người đó sẽ được dẫn
tới sự công chính và những người công chính sẽ chiếu sáng như những vì sao mãi
mãi”. Sự phát minh của Edison ngay cả khi nó phát triển nó cũng chỉ là mờ nhạt
khi so với ánh sáng của sự sống đời đời, đặc ân lớn lao của Đức Kitô đã ban
xuống khi Ngài đến một lần nữa, Ngài đến lần thứ hai khi Ngài Phục Sinh từ cõi
chết sống lại.
Shakespeare sẽ
không bao giờ tưởng tượng ra cảnh Đức Kitô, Con Thiên Chúa sẽ đến trong đám mây
với quyền năng lớn lao và vinh quang, cũng không bao giờ tìm thấy đủ từ ngữ để
miêu tả sự kiện ấy. Và cả chúng ta cũng như thế nữa. Chúng ta đã hầu như không
hiểu lời của những từ ngữ mà trong bài Phúc Âm ngày hôm nay. Đó là tất cả những
gì mà chúng ta muốn trở nên hay cả khi nó xảy ra chỉ có Cha trên trời mới biết
được.
Trong lúc chúng ta
không giống như những người Israel đang chịu đau khổ trên miền đất của mình bởi
sự chiếm đóng của người Syrie. Chúng ta đang bị bao quanh bởi đạo quân văn hóa
của sự chết, đạo quân này gây chiến tranh trên giá trị và nhân phẩm của đời
sống con người. Nó tấn công chính tình bạn con người khi họ rất dễ tổn thương:
khi chúng bắt đầu đời sống trong dạ mẹ, và khi gần chấm dứt cuộc sống trong
tuổi già. Họ loại bỏ những người hầu như cần tới sự giàu có của quê hương chúng
ta để cho họ được sống sót: là những kẻ không nhà, những kẻ đói ăn, những kẻ
lãnh trợ cấp và những dân nhập cư.
Trong lúc chúng ta
vẫn trung thành với đức tin Công Giáo và những giáo huấn giá trị của Giáo Hội,
chúng ta không phải chết đau khổ; ít nhất cũng là như thế. Nhưng chúng ta bị
nguy hiểm khi cho phép chính mình bị ảnh hưởng một cách tinh tế, bởi những giá
trị thế tục như là ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, sự
tham lam. Để kháng cự lại những ảnh hưởng này, chúng ta phải suy niệm về lời
hứa sự sống đời đời cho những kẻ còn giữ được lòng trung thành. Chúng ta sẽ nhớ
rằng bí tích Thánh Thể là một lời nài xin và một lời hứa của sự sống đời đời sẽ
là động cơ thúc đẩy chúng ta trung thành mãi mãi. Đức Kitô sẽ làm viên mãn
những lời của bài đọc ngày hôm nay: “Những ai được dẫn tới sự công chính sẽ
chiếu sáng như những vì sao trên trời”. Bên cạnh sự chiếu sáng như những vì sao
chúng ta sẽ nghe thấy và sẽ nhìn thấy chính Thiên Chúa.
5.
Hy vọng có giúp chúng ta thấy Đức Kitô không?
(Trích trong ‘Lương Thực
Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Thời kỳ thánh Marco
chép Phúc Âm, loại văn chương mệnh danh là văn chương mạc khải được những giới
Do Thái nào đó ưa chuộng, coi là hợp thời trang. Có những tập sách được lưu
huỳnh, thường gồm những đoạn mô tả những tai họa thảm khốc, nhắm mục đích mạc
thị về Đấng Cứu Thế sẽ quang lâm, để lãnh đạo Israel dân Người. Hai thắc mắc:
Ngay chính Đức Kitô có dùng thứ ngôn ngữ mạc khải đó không trong những bài giảng
về ngày tận thế? Trong chừng mực nào thánh Marco đã sử dụng loại văn thể đó?
Điều ấy không quan hệ lắm ở đây. Ta ghi nhận rằng không nên hiểu những đoạn
trong bài giảng của Chúa theo nghĩa đen và cụ thể. Người ta có quyền nghĩ rằng
Chúa Giêsu loan báo trực tiếp thảm họa năm 70 sẽ tàn phá Giêrusalem. Nhưng quan
trọng hơn nữa là cần khai triển ý nghĩa thiêng liêng bài đọc hôm nay.
Chúng ta đứng trước
một vấn đề. Thật vậy, nếu bài đọc cho ta thấy ẩn hiện bóng dáng một thảm họa sẽ
xảy đến lúc chung cục trong vũ trụ hữu hình, thì ta cũng có thể nhờ Lời Chúa
trong Phúc Âm theo thánh Lc soi sáng để hiểu thêm về đoạn Phúc Âm hôm nay: Con
Người quang lâm có sẽ tìm thấy đức tin trên trái đất không?
Chúng ta đối diện
với một bí nhiệm đáng cho ta khiếp sợ. Mặt trời tối sầm, mặt trăng mất sáng,
các tinh tú từ trời sa xuống, tất cả ám chỉ những gì diễn ra ngày cánh chung
trong lĩnh vực đức tin? Chúng ta ao ước phỏng đoán tương lai Giáo Hội như là
một sự tiến dần của nhân loại đến ánh sáng. Như vậy, vào ngày tận cùng, tương
lai đó sẽ kết liễu trong một thảm họa mịt mùng ư? Trong viễn tượng đó, làm thế
nào để bảo toàn niềm hy vọng? Để dễ dàng trả lời, chúng ta đặt câu hỏi rõ hơn.
Hy vọng của chúng ta phải hướng về mục tiêu nào? Hy vọng thúc giục chúng ta
phải có thái độ thực tiễn nào?
1) Hy vọng của chúng ta phải hướng về sự
hiển trị của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, trong ngày sau hết. Người ta sẽ thấy Con Người đến với quyền
năng cao cả và vinh quang. Những kẻ nào làm cho ánh sáng đức tin ra tối tăm sẽ
bị khai trừ, không được hiệp thông vinh hiển với Đức Kitô. Trái lại, những ai
thành tâm thiện chí tin vào Đức Giêsu, những kẻ ‘được tuyển chọn’ sẽ được thu
họp từ bốn phương, từ tận cùng mặt đất đến tận cùng chân trời, để được hiển trị
với Chúa. Do đó, bất kể những thăng trầm trong lịch sử loài người, và cả trong
lịch sử Giáo Hội, chúng ta hãy đặt niềm hy vọng của chúng ta trên sự kiện Đức
Giêsu Kitô, Chúa tể vũ trụ. Người tác động để nhân loại nhìn nhận Người là tâm
điểm vũ trụ. Ngày tận cùng, sự kiện cơ bản ấy sẽ hiển hiện trong khải hoàn, và
sẽ là niềm hân hoan của những kẻ được chọn.
2) Về thực thực tế, chúng ta nắm chắc được
phần nào của sự hy vọng?
Chúng ta có trách nhiệm xây dựng tương lai nào? Chúng ta xây dựng tương lai
chúng ta và tham dự tương lai Giáo Hội trên sự thật hiện hữu nào? Thưa, trên
điều sau. Trong con người chúng ta, một thế giới phải cáo chung để Chúa hiện
đến. Thế giới phải chấm dứt đó là tập thể gồm nhiều lầm lạc, những ảo tưởng,
những ích kỷ, những tội lỗi của chúng ta. Điều chúng ta cần quan tâm không phải
là những việc lành phúc đức, những nhân đức, những chiến thắng trong việc tông
đồ của chúng ta, nhưng chính là niềm hy vọng và ước nguyện Chúa sẽ hiển hiện
trong chúng ta, xuyên qua chúng ta, nhờ vào sức cường nhiệt của đức tin và đức
ái chúng ta lúc này.
6.
Với uy quyền và vinh quang – Gm. Arthur Tonne.
Jim mới được 10 tuổi, một nhóm thiếu niên
trong tuổi 15 đã làm em khổ sở. Chúng đẩy em xuống đường. Làm em trượt té trên
sân trường, và còn lấy cắp tiền ăn trưa của em nữa. Chúng dọa đánh em, đâm em
bằng con dao sáng loáng. Jim không bao giờ nói cho ai hay. Một hôm, đám du côn
làm quá, em phải thốt lên: “Tao sẽ méc anh tao cho tụi bay”. Chúng chế nhạo:
“Đem nó lại đây, càng lớn té càng đau”. Ít ngày sau, đám du côn thấy Jim đi
trên phố, bên cạnh một người lực lưỡng, cao một mét tám trong bộ đồng phục nhà
binh với những giây chiến thắng. Đó là anh của Jim tên Bob. Bất thần Bob ra
lệnh: “Nhãi con, trả tiền cho em tao”. Chúng móc hết túi ra và còn phải hứa trả
tiền ăn cắp còn lại.
Chợt nhớ câu chuyện
khi chúng ta nghe bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói về Người trong bài Phán
Xét Chung: “Họ sẽ thấy Con Người đến trong mây trời với uy quyền và vinh
quang”.
Thường thường ý
tưởng về ngày phán xét chung gợi cho chúng ta lòng kính sợ Chúa. Như hôm nay,
tôi nghĩ rằng: “Ngày phán xét chung cho những người phụng sự Chúa: một hy vọng
lớn lao, một niềm cậy trông vui mừng, một cái gì giông giống niềm hy vọng của
Jim: Anh của Jim sẽ làm sáng tỏ vấn đề.
Với chúng ta, những
người theo Chúa Kitô: ý tưởng về ngày phán xét tận cùng phải là một ngày hạnh
phúc, vui mừng.
Đó là đề tài của
lời cầu nguyện sau kinh Lạy Cha trong Thánh Lễ: “Trong lòng nhân từ của Cha,
xin giữ chúng con khỏi tội lỗi và che chở chúng con khỏi mọi nỗi lắng lo. Trong
khi chúng con trông đợi, trong hy vọng hân hoan sự trở lại của Chúa Giêsu Kitô,
Đấng cứu chuộc chúng con”.
Rồi linh mục và
giáo dân hô to: “Vì Nước Trời, uy quyền và vinh quang là của Cha. Bây giờ và
mãi mãi”.
Lời kinh nguyện thứ
ba dùng thành ngữ: “Sẵn sàng đón mừng Người khi Người trở lại”.
Cũng trong lời kinh
nguyện ấy, trong việc tưởng nhớ Người chết, chúng ta tuyên xưng đức tin: “Chúa
Kitô sẽ làm cho thân xác hay chết của chúng ta trở nên giống thân xác của Người
trong vinh quang… Chúng con hy vọng được chia sẻ vinh quang của Chúa. Khi mọi
nước mắt của chúng con được lau sạch”.
Chúng ta trông đợi
trong niềm cậy tin và hy vọng hân hoan sự trở về của người anh cả: Đức Giêsu
đầy quyền uy và vinh quang với tình yêu vô hạn đối với các em nhỏ của Người là
bạn và tôi. Người chỉ đáng sợ đối với những kẻ khinh thường Người; Những kẻ coi
nhẹ Người và các kẻ theo Người. Nhưng Người đầy uy quyền và vinh quang đối với
những kẻ ca tụng Người, tôn vinh Người và theo Người như chúng ta hôm nay và
ngày mai.
Xin Chúa chúc lành
bạn.
7.
Con Người sẽ đến trên đám mây – Noel Quesson.
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII ngã bệnh
nặng, các bác sĩ không nói gì về bệnh tình, nhưng người biết khó sống và thường
nói: “Tôi đã sắp sẵn hành trang”. Vào ngày cuối cùng, vị thư ký riêng tới bên
giường hôn tay Đức Giáo Hoàng và hỏi thăm xem ngài biến chuyển ra sao. Đức
Gioan trả lời: - Cha thấy dễ chịu và an bình trong tay Chúa, nhưng cũng hơi lo.
Vị thư ký nói: - Cha không phải lo. Nhưng
chúng con đang lo đây. Chúng con mới nói chuyện với các bác sĩ…
Đức Giáo Hoàng ngắt lời hỏi: - Họ nói với
con thế nào?
Vị linh mục nghẹn ngào nói: - Thưa Đức Thánh
Cha, con phải nói sự thật: Hôm nay là ngày của Chúa. Hôm nay Cha về Thiên đàng.
Nói xong, vị thư ký quỳ xuống bên giường ôm
mặt khóc. Đức Giáo Hoàng âu yếm xoa đầu vị thư ký và ôn tồn nói:
- Mọi khi con can đảm lắm, sao giờ mềm yếu
vậy? Con vừa cho ta nghe những lời hay đẹp nhất mà một vị linh mục có thể nói:
Hôm nay Cha sẽ về Thiên đàng.
Phải có một niềm
tin vững mạnh, người ta mới có thể bình thản như vậy lúc từ giã cõi đời. Kết
thúc cuộc sống trần gian, cũng như ngày tận thế mà Chúa nói trong Tin Mừng hôm
nay, chính là lúc Chúa đến trong vinh quang. Dĩ nhiên diện kiến Chúa bao giờ
cũng là một phần thưởng và muốn được thuởng thì phải qua thử thách, và cũng
chắc chắn nếu ta cầu xin và cố gắng. Chúa sẽ ban ơn để ta thắng vượt cơn thử
thách này.
Những thử thách
trước tận thế thuộc ba loại: Trước hết là các ngôn sứ giả hiệu và cả Mêsia giả
nữa, họ tìm cách lừa dối, lung lạc niềm tin các tín hữu. Rồi đến các tai nạn tự
nhiên: đói khát, chiến tranh, thiên tai động đất… Sau cùng các Kitô hữu sẽ bị
bách hại.
Những thử thách này
cốt thanh luyện niềm tin các tín đồ, người nào trung kiên sẽ được vui mừng đón
Chúa trong vinh quang. Đây là lần đầu tiên Chúa nói tới uy quyền của Người:
Chúa sẽ ngự trên mây cao xét xử trần gian. Kiểu nói này vốn dành cho Thiên
Chúa, và như vậy Chúa Giêsu đã xưng mình là Thiên Chúa.
Trong bài giảng này
Chúa nói về hai biến cố một lúc: biến cố phá hủy thành đô Giêrusalem và việc
tận thế. Người Do Thái coi việc phá hủy Giêrusalem là hình ảnh ngày thế mạt.
Khi thánh Marcô viết Tin Mừng thì việc đó đã xảy ra rồi. Nhưng trong tư tưởng
người Do Thái lúc đó, thì ngày thế mạt cũng sắp tới, và trong kinh nguyện các
tín hữu, ta thường nghe nhắc lại lời cầu: Xin Chúa đến! Mọi người nóng lòng chờ
ngày Chúa quang lâm như lịch sử đã ghi nhận Chúa xuống trần. Chúa đến lại lần
thứ hai như người cha đi vắng trở về nhà, như ông chủ đã gieo vãi hạt giống Tin
Mừng, bây giờ tới thu hoạch hoa lợi.
Chúng ta là môn đệ
Chúa, chúng ta mong chờ gặp lại Chúa là phải. Tuy Chúa không xa cách chúng ta,
nhưng chúng ta mong được thấy Chúa trong vinh quang của Người. Tuy nhiên muốn
có được lòng mong chờ như vậy, chúng ta phải có đủ tư cách, phải sẵn sàng để
không ngại đối diện Chúa. Phải là đứa con thảo, phải là người môn đệ trung
thành với Lời Chúa, sống theo Tin Mừng, theo đường lối Chúa vạch định. Phải là
người đầy tớ nhận tiền vốn Chúa để lại và đã sinh lợi như Chúa muốn. Lạy Cha,
xin giúp chúng con sẵn sàng chờ đón Chúa, với tâm hồn trong sạch và cuộc sống
bác ái, như người tôi trung, như người con thảo, mong được Cha đón nhận vào
vinh quang Chúa muôn đời.
8.
Ngày cùng tận – Lm. Hồng Phúc.
"Con Người đã gần
đến..."
Chúa nhật hôm nay
là Chúa nhật áp chót trong niên lịch Phụng vụ và đề tài được đề cập đến là ngày
cánh chung và những gì sẽ xảy đến trong ngày tận thế. Con người sống trong hiện
tại, nhưng rất muốn biết về hậu lai, hậu lai của chính mình cũng như của thế
giới. Các Tông đồ chắc có lần đã đem vấn đề ra hỏi Chúa.
Hôm nay, Chúa Giêsu
nói về ngày tàn của thành Giêrusalem năm 70, nhưng đồng thời Ngài mời chúng ta
suy nghĩ về ngày cuối cùng của lịch sử thế giới. trong những ngày ấy, sẽ có hai
dữ kiện xảy ra:
Một là sẽ có những
cảnh khốn cực trên trời và dưới đất. Trên trời, Chúa bảo, sẽ có cảnh rối loạn:
Mặt trời mặt trăng ra tối tăm, các tinh tú chuyển động, Có những nhà khoa học
cho rằng ngày tận thế là ngày các tinh tú khổng lồ không theo luật tuần hoàn
nữa, sẽ đụng chạm vào nhau khủng khiếp.
Dưới đất, trước đó,
giặc giã chiến tranh sẽ xảy ra gây khốn cực vô cùng. Tất cả cảnh bi đát đó sẽ
dọn đường cho một việc lớn lao cao cả: Ấy là việc Chúa sẽ giáng lâm, hiện đến
trong vinh quang, phán xét kẻ sống và người chết. Chúng ta không nên hình dung
ngày giáng lâm của Chúa như một ngày ghê sợ, mà là một ngày chứa chan hy vọng.
Vì Chúa đến để tập họp những người tin vào Chúa, thành một vương quốc của những
người Chúa đã tuyển chọn.
Trong một cái nhìn
thông suốt, Chúa cho chúng ta nhìn thấy hiện tại và tương lai. Hiện tại gần là
ngày tàn của thành phố Giêrusalem. Năm 70, khi đại quân Lamã bắt đầu đến bao
vây thành, tục truyền rằng giáo dân đã nghe lời Chúa, biết trước, nên do sự
hướng dẫn của Thánh Simon đã trốn qua thành phố Pella và tránh khỏi tai họa.
Dân Do thái đã chịu cảnh tang thương chưa từng thấy, đền thờ bình địa
"không còn hòn đá nào nằm trên hòn đá nào".
Tương lai xa là
ngày tận thế. Các Tông đồ hỏi Chúa: Đâu là dấu tiên báo? Và Chúa cho biết ba
dấu tiên báo: Một quỉ vương, kẻ thù của Chúa và các bộ hạ của nó xuất hiện;
những cuộc đảo lộn kinh khủng, nhất là nhiều người bỏ đạo và mất đức tin. Và
Chúa nói: "Khi các ngươi thấy những điều đó thì hãy biết rằng Con Người đã
gần đến, đã đến ngoài cửa".
Tuy nhiên, Chúa dạy
chúng ta không nên hoảng sợ. Chúa đến phán xét mọi người. Nhưng "đối với
những ai mong đợi trong yêu mến ngày Chúa lại đến" (2Tim 4,8), thì Ngài sẽ
là Đấng Cứu độ và là vinh quang của họ: "Ngài sai các Thiên Thần đi quy tụ
từ bốn phương trời, những người được tuyển chọn". Giáo hội bị bắt bớ nhưng
cũng được sự an ủi vì "sẽ thấy vinh quang của Đấng Cứu Chúa là Chúa Giêsu
Kitô" (Tt 2,13).
"Ngươi hãy giữ
lòng trung thành cho đến chết, thì Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự
sống" (Kh 2,10).
9.
Phán xét chung.
Bấy giờ Con Người
sẽ ngự đến, đầy uy nghi và cao cả. Đó là một vài nét chấm phá về ngày phán xét
chung, ngày Chúa ngự đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết, ngày
linh hồn chúng ta sẽ lộ hết chân tướng.
Đúng thế, vào ngày lễ Giáng sinh năm 1541,
người ta mở tấm màn che phủ bức tranh khổng lồ của Michel Ange. Bức tranh về
ngày phán xét chung. Nếu được nhìn ngắm, hẳn chúng ta sẽ rùng mình khiếp hãi.
Khuôn mặt của Chúa Giêsu không còn là khuôn mặt của vị mục tử nhân lành, nhưng
là khuôn mặt của một vị quan tòa oai nghiêm. Trong bức tranh, có đến hơn 300
hình ảnh: nào là các thánh Tông đồ, nào là các thánh Tử đạo,nào các thánh Tiến
sĩ, nào là các Đức Giáo hoàng, nào là những người giáo dân…Theo tiếng kèn thiên
sứ, những người chết chỗi dậy và ra khỏi mồ. Cha mẹ âu yếm nhìn lại con cái của
mình. Bạn bè tay bắt mặt mừng. Thế nhưng, trong ánh mắt của họ hiện rõ một sự
lo âu sợ hại vì số phận đời đời sắp được ấn định. Nhưng đó mới chỉ là một bức
tranh do óc tưởng tượng của nhà nghệ sĩ.
Nếu những điều Chúa
tiên báo về số phận bi thảm của Giêrusalem đã được thực hiện vào năm 70, khi
tướng Titus đem quân vây hãm và tàn phá, đến mỗi không còn hòn đá nào chồng
trên hòn đá nào, thì những lời Chúa nói trước về ngày tận thế chắc chắn cũng sẽ
xảy ra. Thế nhưng, có những người đã tự lừa dối mình khi nói: Thiên Chúa nhân
lành, Ngài không nỡ trừng phạt chúng ta trong lửa đời đời. Họ đã lầm. Đúng thế,
lòng nhân lành của Thiên Chúa không phải là một cái gì nhu nhược và yếu đuối và
bản thân Ngài cũng không phải là kẻ thiếu khả năng, không thực hiện được những
ý định của mình. Mặc dù là một người cha giàu lòng thương xót, nhưng Ngài vẫn
là một vị thẩm phán công bằng, trừng trị những kẻ phản bội Ngài bằng án phạt
hỏa ngục muôn kiếp.
Trong khi tạc một
một bức tượng, nhà nghệ sĩ thường dùng màn để che phủ, nhưng lúc đã tạc xong,
ông ta sẽ vén bức màn đó lên để mọi người chiêm ngắm. Trong ngày phán xét chung
cũng vậy, búc màn che dấu cuộc đời chúng ta cũng sẽ được vén lên và lúc đó câu
hỏi duy nhất được đặt ra cho mỗi người, đó là hàinh ảnh Thiên Chúa có rõ ràng
và sáng chói trong tâm hồn chúng ta hay không? Trong cuộc sống trần gian, chúng
ta đã dùng áo quần và son phấn cũng như địa vị xã hội để che dấu con người thực
sự và ngay cả những người bạn thân thiết nhất cũng không thể nào nhìn thấy
khuôn mặt thật của chúng ta. Nhưng khi giờ phán xét đến, tất cả bức màn ấy sẽ
bị rơi xuống, để chúng ta hiện nguyên hình trước tôn nhan Thiên Chúa. Mọi tư
tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm của chúng ta, dù thầm kín nhất cũng sẽ bị phơi
bày dưới ánh sáng của Thiên Chúa. Chúng ta không thể nào chạy tội hay chối cãi
được nữa. Đó là một giây phút quyết liệt, giây phút đứng trước tòa án tối cao
của Thiên Chúa, Ngài sẽ không hỏi chúng ta đã sống được bao nhiêu năm, nhưng sẽ
hỏi chúng ta đã sống như thế nào?
Lúc bấy giờ sứ thần
Chúa sẽ mở cuốn sổ cuộc đời chúng ta. Bao nhiêu ngày là bấy nhiêu trang. Đây là
những ngày chúng ta còn thơ ấu với những trang được viết bằng nét chữ vàng ghi
nhận những giờ kinh sốt sắng, những lần rước lễ thật trang nghiêm và những tâm
tình sám hối ăn năm. Sứ thần Chúa tiếp tục mở những trang kế tiếp. Không một tư
tưởng, không một lời nói cũng như không một việc làm nào bị quên sót. Tất cả
những việc tốt cũng như những việc xấu.
Nhưng rồi nét mặt
của vị sứ thần Chúa bắt đầu buồn bã và chúng ta lo sợ. Trên những trang giấy
ấy, đã xuất hiện những vết đen đầu tiên, đó là những lầm lỗi của chúng ta. Tiếp
đến là một trong đen kín, đó là tội trọng đầu tiên chúng ta đã vấp phạm. Rồi
lại đến những trang đen kín khác và ngay cả trang cuối cùng cũng đen kín. Sứ
thần Chúa bỏ đi, nước mắt chan hòa và ma quỷ tiến đến. Nó thưa lên cùng Chúa:
Lạy Chúa, là vị thẩm phán công minh. Chính Chúa đã xuống thế làm người vì kẻ
tội lỗi này. Chính Chúa đã chịu lạnh rét nơi hang đá Bêlem cũng vì kẻ tội lỗi
này. Chính Chúa đã sống nghèo hèn suốt 30 năm cũng vì kẻ tội lỗi này. Chính
Chúa đã chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá cũng vì kẻ tội lỗi này. Thế
nhưng, kẻ tội lỗi này vẫn ngoan cố, không chịu phụng sự làm tôi Chúa, nhưng đã
chạy theo tội lỗi. Vậy xin Chúa phán quyết xem: hắn thuộc về Chúa hay là thuộc
về tôi?
Bởi đó, hãy thuộc
về Chúa trong giây phút hiện tại, để rồi chúng ta sẽ thuộc về Chúa mãi mãi
trong cuộc sống vĩnh cửu, và chúng ta sẽ không còn lo sợ khi Chúa đển để xét xử
chúng ta.
10.
An tâm.
Khi còn ở Tập Viện, một hôm thánh Louis
Gonzaga đang chơi với các bạn thì một người bạn hỏi ngài rằng: “Giả sử bây giờ
chỉ còn ít phút nữa bạn sẽ chết, bạn sẽ làm gì?” Thánh Louis dừng lại một chút
rồi mỉm cười trả lời: “Tôi sẽ tiếp tục chơi”.
Nhiều người ngày
nay lo sợ về ngày tận thế. Bởi vì có nhiều dấu hiệu giống như những điều đã
được tiên báo trong các sách Tin Mừng. Chẳng hạn như loạn lạc chiến tranh, tình
trạng hỗn độn, nạn đói kém, các dịch bệnh, động đất và việc xuất hiện các ngôn
sứ giả (Mt 24:4…) Đó là những dấu chỉ của những ngày sau cùng và chúng liên hệ
đến các biến cố trong thời đại của chúng ta. Đây không phải là một giả định.
Với tư cách là những Kitô hữu, theo quan điểm của Giáo hội, niềm tin của chúng
ta là chúng ta đã và đang sống những ngày sau cùng từ hai ngàn năm nay rồi. Bắt
đầu từ ngày Chúa Giêsu Kitô chịu chết và phục sinh, cho đến khi Chúa trở lại
trong vinh quang, thời gian này được gọi là những ngày sau cùng.
Đối với những người
Kitô hữu chúng ta, sự kiện tận thế không phải là sự hủy diệt trái đất mà chúng
ta đang sống, như một số nhà khoa học tin như thế, nhưng là việc Chúa Giêsu
Kitô đến lần thứ hai. Đó là lúc kẻ chết sống lại và mọi người đều phải trình
diện trước Chúa Kitô để chịu phán xét. Chúng ta gọi biến cố này là ngày của
Chúa, bởi vì ngày đó chấm dứt sự hoành hành của Thần Dữ. Nó đã bị đánh bại.
Vì thế, bạn đừng lo
lắng chuyện tận thế, nhưng vấn đề là ở chỗ bạn có giữ vững đức tin của mình
không? Bạn có sống đúng là một Kitô hữu hay không? Thay vì phí mất thời giờ quí
báu để lo lắng về chuyện tận thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Kitô khuyên
chúng ta hãy sống đúng tư cách là người Kitô hữu trong hiện tại. Vấn đề là ở
chỗ này.
Theo Kinh Thánh,
ngày phán xét chúng ta chỉ bị hỏi một câu thôi: “Con đã làm gì cho những anh
chị em nhỏ mọn nhất của Ta?”
Lạy Chúa, xin cho
con sống mỗi ngày như thể là ngày sau hết của đời con.
11.
Hãy chuẩn bị.
Cách đây ít năm, một chiếc máy bay hàng
không Nhật bản đã tông vào núi, cả 520 người thiệt mạng. Chỉ tích tắc có một
vài phút trước khi chiếc máy bay tông vô thành núi thì các hành khách được báo
là chiếc máy bay sẽ tận số. Ngay sau đó thì cái tai ương đã xảy ra.
Khi các nhân viên cấp cứu đến chỗ chiếc máy
bay bị rớt thì họ tìm thấy một cuốn lịch nhỏ bỏ túi của một thương gia người
Nhật. Trong cuốn lịch nhỏ đó, người thương gia đã ghi lại một vài mấy hàng chữ
vội vàng trong giây phút cuối cùng trước khi chết. Thí dụ như, "Chúng tôi
không thể thoát được rồi... tôi buồn quá!"
Hàng chữ khác thì cho gia đình của ông ta,
"Tôi nghĩ rằng bữa tối hôm qua là bữa ăn cuối cùng với nhau."
Hàng chữ khác ghi cho ba người con của ông,
"Hãy sống tốt, làm việc hăng say, mà giúp đỡ mẹ các con."
Những hàng chữ viết vội vàng là những hàng
chữ của một người sắp chết. Không có một điệu nhạc nào kéo dài cả giờ hay cả
ngày để báo trước cho ông biết cái tai ương này. Nó đến bất chợt giống như tên
trộm cắp trong đêm.
Bài Phúc Âm hôm nay
diễn tả cho chúng ta cách Chúa Giêsu chuẩn bị cho con người về những tin tức
xấu. Ngài nói với họ rằng một tai ương sẽ xảy ra vào thời đại của họ. Hơn nữa,
nó sẽ được báo trước bằng những dấu chỉ.
Theo như lịch sử
thì cái tai ương mà Chúa Giêsu nói đến đây là sự sụp đổ của Đền Thờ Thành
Giêrusalem. Cái tai ương này đã xảy ra sau 40 năm từ lúc Chúa Giêsu chịu chết.
Điều này cũng nhắc
nhở cho chúng ta đến cái ngày mà toàn thể thế giới phải đến: đó là ngày tận
thế. Cái ngày này là cái ngày mà Giáo Hội muốn nhắc nhở cho chúng ta hôm nay.
Không một ai trên
thế gian này có thể biết được ngày nào hoặc giờ nào sẽ xảy ra, nhưng chỉ có
Chúa Cha.
Tuy nhiên, sẽ có
những điềm báo trước ngày tận thế. Một số người cho rằng những điềm báo trước
đã xảy ra cho nên ngày tận thế sắp đến.
Một trong những
điềm đó là sự phát triển nhanh chóng của các loại vũ khí, đặc biệt nhất là một
số quốc gia đang gặp chiến tranh. Thí dụ như trên thế giới ngày nay có đến cả
hàng chục quốc gia, với những mưu toan chiến tranh, chất chứa những chất nổ
nguyên tử có thể làm cho thế giới trở nên tối tăm. Chỉ cần một lầm lỗi hoặc một
người nào đó tức giận thì cả hàng triệu người, thậm chí cả thế giới, có thể sẽ
biến mất. Không một người khôn ngoan nào có thể gây ra những điều điên khùng
như vậy.
Trong bài Phúc Âm
hôm nay, Chúa Giêsu đặt ra trước mắt chúng ta hai chủ đề. Thứ nhất, cuộc sống của chúng
ta có thể kết thúc bất chợt, và thứ hai, sự chuẩn bị cho kết cuộc đó.
Đó là lý do tại sao
Giáo Hội lại đặt để những chủ đề này vào cuối năm Phụng Vụ.
Hai chủ đề trên
nhắc nhở chúng ta, như Chúa Giêsu đã nhắc nhở các môn đệ Ngài trước khi Ngài
rời bỏ thế gian, rằng cuộc sống ngắn ngủi ở thế gian này chỉ là một sự chuẩn bị
cho cuộc sống vĩnh cửu sau này.
Vì thế, chúng ta
không nên dính líu quá sâu vào vào cuộc sống thế gian này mà đánh mất đi cái
nhìn về cuộc sống mai sau.
Không một ai biết được
lúc nào thì cuộc sống của mình sẽ chấm dứt hoặc lúc nào là tận thế, nhưng chỉ
có một mình Thiên Chúa Cha biết mà thôi. Vì thế, chúng ta hãy luôn luôn tỉnh
thức chuẩn bị để đón chờ giây phút tận cùng đó. Nó sẽ đến khi chúng ta không
ngờ. Nó sẽ đến cách bất chợt mà chúng ta chỉ có một ít thời gian hoặc là không
có thời gian để chuẩn bị.
Đây là điều mà
chính Chúa Giêsu đã nhắc đến trong bài Phúc Âm hôm nay. Không một ai trong
chúng ta có thể biết được khi nào thì cuộc sống của chúng ta sẽ chấm dứt. Vì thế,
chúng ta hãy luôn luôn sẵn sàng.
12.
Chúa sẽ đến.
Trong những ngày
cuối đời Chúa Giêsu đã nói tiên tri về hai biến cố, đó là sự tàn phá Giêrusalem
và ngày Con Người trở lại trong vinh quang.
Trước hết là về sự tàn phá Giêrusalem.
Thành phố này đã
giết Đấng Cứu Thế để chạy theo những thần tượng giả trá cũng như có những lời
nói lộng ngôn phạm thượng. Thảm cảnh bắt đầu từ việc họ chống lại binh đội La
mã, để rồi tướng Titus đã đem quân vây hãm thành vào năm 70. Cùng với cuộc vây
hãm này là một nạn đói thê thảm xảy ra trong thành vì mọi con đường tiếp tế đều
bị cắt đứt khiến cho những người mẹ có khi phải ăn thịt chính đứa con của mình.
Khi đoàn quân của
Titus đã làm chủ tình hình và thành phố hoàn toàn thất thủ thì có đến gần một
triệu người bị giết, hơn một trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ, đến nỗi một sử
gia đã ghi lại: Không có đủ thập giá để hành quyết và không có đủ chỗ để dựng
thập giá lên.
Tiếp đến là ngày tận cùng của vũ tru, ngày
Con người ngự đến trong vinh quang.
Chúa Giêsu đưa ra
hai loại dấu chỉ. Loại thứ nhất là những dấu chỉ trong phạm vi luân lý: Sẽ có
những tiên tri giả, họ là những dụng cụ của ma quỉ nhưng lên tiếng nói về Thiên
Chúa. Sẽ có những Kitô giả, nhờ quyền phép ma quỉ để làm những việc lạ lùng hầu
lung lạc đức tin của những môn đệ Chúa. Họ là loài lang sói mặc lốt chiên để
rồi cắn xé đoàn chiên.
Loại thứ hai là những dấu chỉ
trong phạm vi vật chất:
Mặt trời sẽ trở nên tăm tối, mặt trăng sẽ không còn chiếu sáng. Các vì sao sẽ
rơi xuống và sức mạnh của trời đất sẽ rung chuyển.
Bấy giờ Chúa Giêsu
sẽ ngự đến trên đám mây với tất cả quyền năng và vinh quang của Ngài. Những
người chết sẽ sống lại để chịu phán xét. Cuộc phán xét này bổ túc cho cuộc phán
xét riêng tư khi cùng với cái chết chúng ta giã từ cuộc sống. Người lành đứng bên
phải còn kẻ dữ đứng bên trái. Tất cả đều lắng nghe phán quyết của Đấng Tối Cao.
Hạnh phúc muôn đời hay khổ đau mãi mãi. Tại sao lại có cuộc phán xét chung xảy
ra như thế?
Lý do thứ nhất là để Chúa
Giêsu tỏ lộ quyền năng và vinh quang của Ngài.
Thực vậy, Chúa
Giêsu đã khiêm nhường chịu đựng mọi khổ đau, đã vâng lời cho đến chết và chết
trên thập giá. Nhiều người tưởng rằng Ngài đã thất bại. Rồi từ đó đến nay, Ngài
không ngừng bị xua đuổi, bị bách hại và cấm cách, thì giờ đây Ngài xuất hiện
trước mặt mọi người như là vua muôn vua với tất cả quyền năng và vinh quang của
Ngài.
Lý do thứ hai là để vạch mặt
những kẻ tội lỗi.
Thực vậy, sống trên
trần gian họ đã khéo léo che dấu những tội lỗi của mình và không chừng còn được
người đời tung hô. Giờ đây những chiếc mặt nạ ấy sẽ bị rơi xuống, để con người
thực của họ được phô bày. Họ sẽ xấu hổ và tuyệt vọng mà kêu lên:
- Tôi đã lạc đường
và ánh sáng công lý không còn chiếu tỏa cho tôi. Tiền bạc và địa vị trần gian
ích gì cho tôi trong giây phút đớn đau này.
Và sau cùng là để ân thưởng
vinh quang cho những người lành thánh.
Rất có thể trong
cuộc sống họ đã bị khinh bỉ, bị chèn ép, bị bóc lột. Tội ác đã chiến thắng,
những chiến thắng của nó chỉ thoáng qua trong chốc lát. Giờ đây họ được vinh
hiển trước mặt những kẻ mà xưa kia đã từng khinh bỉ, chn ép và bóc lột họ. Họ
sẽ chiến thắng cho đến muôn ngàn đời vì Chúa Giêsu đã phán với họ:
-
Hỡi
những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc hãy đến lãnh lấy phần thưởng đã được sắm sẵn
cho các ngươi từ thưở đời đời…
Đừng để đến ngày
mai vì e rằng ngày mai thì đã quá muộn nhưng ngay từ hôm nay, hãy chọn cho mình
con đường dẫn tới Chúa và hãy can đảm bước theo Ngài.
13.
Ngày tận thế.
Một phụ nữ vội vã trở về nhà từ sở làm. Đêm
nay cô sẽ có một dạ tiệc. Thình lình, cô phát hiện một anh chàng giương cao một
tấm bảng có ghi: Ngày Tận Thế Đã Đến Gần. Cô đến gặp anh chàng và nói:
- “Anh nói ngày tận thế đã đến gần”.
- “Đúng thế, thưa cô”, anh ta đáp.
- “Nhưng anh có chắc chắn không?”
- “Hoàn toàn chắc chắn, thưa cô”
Và anh nói: “đã gần rồi” - “Vâng, thưa cô”
“Gần làm sao?” - “Ồ, rất gần”
“Anh có thể nói chính xác hơn không?”
- “Ngay đêm nay, thưa cô”
Cô ngừng lại một lúc để suy nghĩ về điều đó.
Rồi với một giọng đầy lo lắng, cô hỏi: “Này cậu, hãy nói cho tôi rõ. Tận thế sẽ
xảy ra trước hay sau bữa dạ tiệc?”
Chúng ta đang sống
trong một thế giới rất bất ổn. Dường như nó chao đảo từ khủng hoảng này sang
khủng hoảng khác. Một cách mơ hồ, điều này có thể gây ra những nỗi sợ hãi và lo
lắng to lớn. Ở giữa thế giới bất ổn và thay đổi ấy, chúng ta cần có một sự gì
vững chắc để trông cậy phó thác. Đối với người Kitô hữu, điều đó chỉ có nghĩa
là tin vào Thiên Chúa. Thánh vịnh trong thánh lễ hôm nay cũng nói về điều đó:
“Tôi luôn luôn nhìn lên Đức Chúa còn Người ở bên tay phải của tôi. Tôi sẽ đứng
vững vàng”. Và dĩ nhiên chúng ta có Lời của Đức Giêsu: “Trời đất sẽ qua đi,
nhưng Lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu”. Đó là tất cả những gì chúng ta có. Nhưng
đó là tất cả những gì chúng ta cần. Sự bảo đảm là tất cả những điều ấy đều ở
trong bàn tay Thiên Chúa. Vả lại kế hoạch của Người cho chúng ta và cho thế
giới sẽ được hoàn thành. Đức Kitô sẽ trị vì. Thiên Chúa sẽ trị vì. Chúng ta sẽ
trị vì với Người trong đời sống vĩnh cửu. Nhiều người đã yêu cầu muốn biết khi
nào tận thế sẽ đến. (Yêu cầu này xem ra đã trở nên liều lĩnh khi chúng ta vừa
kết thúc một thiên niên kỷ để bắt đầu một thiên niên kỷ mới). Một số người yêu
cầu Thiên Chúa hoặc Đức Maria ban cho họ một mạc khải đặc biệt, một số người
khác lấy Kinh Thánh ra để tính toán ngày tận thế. Tất cả những yêu cầu ấy quả
là dốt nát. Tin Mừng ngày hôm nay cho chúng ta một sứ điệp đúng lúc về ngày tận
thế. Đức Giêsu nói với chúng ta rằng không một ai biết được khi nào tận thế trừ
Chúa Cha trên trời. Và hướng về ngày tận thế, chúng ta phải hy vọng mà đừng sợ
hãi. Thiên Chúa dựng nên chúng ta là để cứu chuộc chứ không phải để kết án
chúng ta. Đức tin cho chúng ta niềm xác tín rằng thế giới này không hướng về sự
chấm dứt, một tai họa không thể thay đổi được. Nó cũng không hướng về một chung
cuộc nào đó, mà nó hướng về một sự thành tựu viên mãn. Bởi vinh quang Phục
sinh, Đức Giêsu đã chiến thắng sự ác và sự chết. Chúng ta nên lo lắng nhiều hơn
về chung cuộc đời mình khi chết đó là một điều chắc chắn thay vì lo lắng về
ngày tận thế là một điều ở ngoài tầm tay.
14.
Suy niệm của JKN.
NGÀY CÙNG TẬN CỦA MỖI CÁ NHÂN VÀ CỦA TOÀN
THẾ GIỚI
Câu hỏi gợi ý:
1.
Chết có
phải là điều chắc chắn nhất sẽ xảy ra cho ta không? Chết là gì, có phải là chấm
hết hoàn toàn không? Nếu không thì có gì đáng ta lo ngại?
2.
Đời ta
chắc chắn có ngày tận cùng. Còn đời sống của thế giới thì sao? Có tận cùng
không? Có những dấu hiệu nào báo trước ngày tận cùng đó?
3.
Thiên
Chúa có thường xuyên nhắc nhở để ta ý thức và chuẩn bị cho cái chết của mình
không? Ngài nhắc nhở ta thế nào? bằng những dấu hiệu nào?
4.
Cách
tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Chúa là gì?
Suy tư gợi ý:
1. Một chân lý chắc chắn nhất trong cuộc
đời: ta sẽ chết
Có một điều mà ta
có thể quả quyết chắc chắn hơn tất cả mọi điều, đó là sẽ có ngày ta phải chết,
phải từ giã cõi đời, lìa bỏ mọi người kể cả những người thân yêu nhất mà ta
không bao giờ muốn rời xa. Đây là một chân lý mà ta vẫn thường xuyên chứng
nghiệm mỗi khi gặp đám ma hay dự lễ an táng của một ai đó. Đó là một chân lý
chắc chắn nhất trên đời, nhưng nhiều khi ta sống như thể không hề có chân lý
ấy, như thể chúng ta sẽ không bao giờ chết, mà cứ sống mãi sống hoài cùng với
trời đất. Mỗi lần thấy có ai qua đời, thiết tưởng ta nên nghĩ rằng một ngày nào
đó sẽ tới phiên chúng ta. Và ngày ấy không ai có thể xác định được: có thể là 30,40
năm nữa, nhưng cũng có thể là 10,5 hay 1 năm nữa, và cũng rất có thể là tháng
sau, tuần sau, ngày mai, hay chút xíu nữa. Nhiều người đã chết bất đắc kỳ tử,
những người này thường không ngờ được mình lại chết sớm và nhanh như vậy! Còn
ta, ta không thể quả quyết rằng mình không thuộc số những người này! Và ngày ta
chết chính là ngày cùng tận của riêng ta!
Nếu cá nhân mỗi
người đều có ngày cùng tận, thì toàn thế giới hay toàn nhân loại này cũng có
ngày cùng tận của nó. Và đó cũng là một chân lý chắc chắn không kém gì sự chết
cá nhân. Vì trong thế giới hiện tượng, cái gì có sinh thì cũng có diệt theo
định luật «thành, trụ, hoại, không». Và bài Tin Mừng hôm nay nhắc nhở ta về
chân lý bất di dịch này, đồng thời cho ta biết những dấu hiệu báo trước ngày
tận diệt ấy.
2. Những dấu hiệu báo trước
a) Ngày tận cùng của cá nhân
Theo niềm tin Kitô
giáo, chết là bắt đầu một đời sống khác, và đời sống mai hậu ấy là một đời sống
vĩnh cửu. Điều hết sức nghiêm trọng là đời sống mai hậu ấy nếu hạnh phúc thì là
hạnh phúc vĩnh cửu, và nếu đau khổ thì cũng là đau khổ vĩnh cửu. Mà hạnh phúc
hay đau khổ trong đời sống ấy hoàn toàn tùy thuộc vào cách ta sống, cách ta
tin, cách ta hành xử trong đời sống hiện tại. Vì thế, cách ta sống trong đời
sống hiện tại này thật quan trọng, nó quyết định số phận vĩnh cửu của ta. Chính
vì đời sống hiện tại có tính quyết định vĩnh cửu như thế, nên vì yêu thương ta,
Thiên Chúa thường xuyên gửi đến ta những sứ điệp cảnh báo ngày chết của ta.
Nhưng rất nhiều người trong chúng ta coi thường những sứ điệp ấy để rồi cuối
cùng phải lâm vào tình trạng đau khổ vĩnh cửu.
Sau đây là những sứ
điệp của Thiên Chúa nhắc nhở ngày tận số của ta:
Những đám ma, những lễ an táng mà ta gặp
hay tham dự là những dấu hiệu nhắc nhở ta rằng chắc chắn một ngày nào đó sẽ tới
phiên ta từ giã cuộc đời như người trong đám ma ấy.
Những dấu hiệu của cơ thể suy thoái như tóc
bạc, răng long, đau lưng, mệt mỏi, bệnh tật, hay những biến cố đến từ bên ngoài
như tai nạn, dịch tễ… đến với chính ta hay người khác đều là những sứ điệp của
Thiên Chúa gửi đến để cảnh báo ta.
Liệu khi Thiên Chúa
gọi ta ra khỏi cuộc đời, ta sẽ xuất hiện trước Thiên Chúa trong tình trạng nào?
tốt lành thánh thiện hay xấu xa tội lỗi? đáng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu hay đáng
chịu trầm luân mãi mãi? Tự hỏi như thế thì còn quá xa vời. Hãy tự hỏi: nếu ngay
bây giờ Chúa gọi tôi đi thì tôi sẽ ra đi trong tình trạng nào? tôi đã sẵn sàng
mọi sự để xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu chưa? Cách tốt nhất để bảo đảm là ta
sẽ ra đi trong tình trạng tốt đẹp là luôn tỉnh thức để luôn luôn trong tình
trạng đẹp lòng Thiên Chúa (x. Mc 13,33; Lc 21,36). Hãy luôn luôn tự nhủ: bất kỳ
một tư tưởng xấu, một hành động xấu nào trong đời ta cũng đều ảnh hưởng tai hại
đến tình trạng cuối cùng của cuộc đời ta, là tình trạng lúc ta ra khỏi thế gian
này. Tình trạng này quyết định số phận cuộc đời mai hậu của ta. Người ta vẫn
nói: «Cây xiêu đằng nào, đổ đằng nấy». Vết mực một khi đã dính vào áo thì dù có
giặt kỹ đến đâu cũng không tránh khỏi làm áo bị cũ, bị hoen ố, bị kém giá trị
đi.
b) Ngày tận cùng của thế giới
Ngày tận cùng của
thế giới cũng có những dấu hiệu báo trước: dưới đất thì động đất, mất mùa, đói
kém, lũ lụt… trên trời thì mặt trời mặt trăng mất sáng, tinh tú sa xuống, «các
quyền lực trên trời bị lay chuyển»… nhân tâm thì điên đảo, chiến tranh và bạo
lực lan tràn, các ngôn sứ giả (tự xưng là ngôn sứ mà bản chất thì không phải)
xuất hiện… Hiện nay ta thấy những hiện tượng ấy đang xẩy ra ngày càng trở nên
rõ rệt, quy mô, có hệ thống và khốc liệt. Điều đó cho thấy ngày tận cùng của thế
giới đã gần kề.
Điều đáng lo ngại
cho thế giới này chính là sự sa đọa và tội lỗi của nhân loại ngày càng gia
tăng. Con người dường như ngày càng mất đi cảm thức về tội lỗi. Người ta chỉ
biết quan tâm chạy theo những quyến rũ của vật chất, của quyền lực, của thú vui
xác thịt… Con người trở nên ích kỷ hơn bao giờ hết. Các tôn giáo - kể cả Kitô
giáo - có khuynh hướng chỉ chú tâm đến những lễ nghi hay hình thức bên ngoài mà
quên đi tinh thần phải có ở bên trong. Vì thế, khả năng soi sáng và hướng dẫn
thế giới của các tôn giáo không mấy hữu hiệu. Giới tăng lữ bị tục hóa đến nỗi
nhiều người chỉ coi tác vụ của mình như một nghề nghiệp để sinh sống… Đó là
những điều khiến Đức Giêsu đã đoán trước và lo ngại cho thế giới này: «Khi Con
Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?» (Lc 18,8).
3. Thái độ cần phải có
Trước sự chắc chắn
và bất ngờ của sự chết, của việc Chúa quang lâm, thiết tưởng mỗi người kitô hữu
cần phải tỉnh thức và sẵn sàng: «Anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em
không ngờ, thì Con Người sẽ đến» (Mt 24,44; Lc 12,40). Thái độ tỉnh thức và sẵn
sàng ấy phải được thể hiện một cách thực tế bằng sự tôn trọng và thực hiện
«chân lý, công lý và tình thương» (x. Mt 23,23b). Tình thương đòi hỏi ta không
chỉ biết lo lắng cho số phận đời đời của mình, mà còn cho số phận của những
người sống chung quanh ta nữa. Trước một thế giới sa đọa và tội lỗi như hiện
nay, nếu ta không cảm thấy một sự lo ngại nào, và cũng không thấy mình cần phải
làm gì, điều đó chứng tỏ tình thương và ý thức liên đới của ta còn rất yếu kém.
Trong ngày phán xét
cuối cùng, điều chủ yếu mà Thiên Chúa phán xét ta chính là tình yêu của ta đối
với tha nhân và những việc ta làm để thể hiện tình yêu ấy (x. Mt 25,31-46).
Điều tốt lành nhất ta có thể làm cho tha nhân chính là giúp họ trở nên công
chính trước mặt Thiên Chúa: Ngày ấy, «những ai làm cho người người nên công
chính sẽ chiếu sáng muôn đời như những vì sao» (Đn 12,3). Đó cũng chính là cách
tốt nhất để chuẩn bị ngày ta ra trước tòa Thiên Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ai cũng
chắc chắn 100% rằng mình sẽ chết. Nhưng chẳng ai chắc chắn được chút nào về
ngày giờ chết của mình. Cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, thậm chí không mấy
ai ngờ trước được. Vì thế, con muốn chuẩn bị thật chu đáo ngày con ra trước tòa
Cha. Con muốn ngày ấy phải là ngày hạnh phúc nhất của con. Con muốn chuẩn bị
bằng cách: ngày nào hay giờ nào con cũng sống như thể ngày đó hay giờ đó là
ngày hay giờ cuối cùng cuộc đời con. Hy vọng với cách đó, con sẽ luôn luôn sẵn
sàng trở về với Cha bất cứ giây phút nào. Xin giúp con sống thật sự tinh thần
chuẩn bị đó.
Lễ
CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM
1.
Không thuộc về thế gian.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
"Tâu
bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết
lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô."
Đó là câu trả lời của ông Micae Hồ Đình Hy khi vua Tự Đức mời ông giả vờ bước
qua thánh giá.
Ông
là người thanh liêm, được nhà vua hết sức tín cẩn, cho phụ trách ngành dệt
trong cả nước. Nhưng ông cũng là một Kitô hữu xông xáo làm việc tông đồ. Ông
không thấy có gì xung khắc giữa việc phục vụ đất nước với việc phục vụ Giáo
Hội.
Khi
quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì ông bị bắt, bị kết án là khinh luật nước,
chống lại triều đình. Ông Hy đã chấp nhận cái chết một cách bình thản. Trước
khi chịu chém, ông còn xin hút một điếu thuốc, hương vị cuối cùng của trần gian
mà ông muốn nếm trước khi nếm hương vị của thiên đàng vĩnh cửu.
Cuộc
sống và cái chết của thánh Micae Hy soi sáng cho đoạn Lời Chúa hôm nay. Người
Kitô hữu có hai đầu dây cần phải giữ. "Như Cha đã sai Con đến trong thế gian,
Con cũng sai họ đến trong thế gian" (Ga 17,18).
Thế
gian là nơi thánh Hy đã sống cho đến chết. Thế gian là đất nước, là vua quan,
là thứ dân... Ngài đã yêu mến và sống tận tình cho thế gian đó.
Thế
gian đã trở nên như máu thịt của người Kitô hữu vì đó là nơi họ được Chúa sai
đến để phục vụ, và là nơi họ trở thành người Kitô hữu trọn vẹn. "Họ không
thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian" (Ga 17,16).
Ở
trong thế gian nhưng không thuộc về thế gian, nghĩa là không hoàn toàn nghĩ và
sống như thế gian. Người Kitô hữu không coi thường mọi giá trị của xã hội,
nhưng họ có một thang giá trị riêng.
Họ
biết đâu là những giá trị mà họ phải tôn trọng. Nếu hy sinh những giá trị đó,
họ sẽ đánh mất chính mình và chẳng đóng góp được gì cho bộ mặt thế giới.
Họ
là nhúm men vùi trong đống bột. Men không được tách khỏi bột, và men cũng không
được biến chất thành bột. Trong cả hai trường hợp, men đều trở nên vô ích.
Chúng
ta vẫn bị cám dỗ buông một trong hai đầu dây. Bỏ một trong hai đều làm mất căn
tính của người Kitô hữu. Ơn gọi Kitô hữu đặt ta vào một thế đứng chênh vênh,
thế đứng dễ ghét, thế đứng đòi phải trả giá.
Tử
đạo là cách làm chứng tuyệt vời trong thời bách hại.
Trong
thời kinh tế thị trường, cần có những cách làm chứng khác. Người Kitô hữu vẫn
bị cám dỗ bước qua lương tâm mình để mua lấy chút địa vị, lợi nhuận, an toàn,
thoải mái...
Thế
gian không ở ngoài ta, thế gian ở ngay trong lòng ta.Ước gì chúng ta dám chấp nhận thiệt
thòi, phiền hà, mất mát, khi can đảm làm chứng cho lòng tin và tình yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Kitô
hữu vừa phải đồng hành với thế gian, vừa có lúc phải lội ngược dòng với thế
gian. Bạn thấy điều đó có quá khó không? Làm sao thực hiện được lý tưởng đó?
·
Thời
nào, nơi nào, làm chứng cho Chúa cũng có cái khó riêng. Đâu là cái khó khi bạn
phải làm chứng cho Chúa trong một xã hội chạy theo tiền bạc và hưởng thụ?
Cầu Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu, vị tử đạo tuyệt vời,
Chúa
đưa chúng con vào thế giằng co liên tục. Chúa vừa chọn chúng con ra khỏi thế
gian, lại vừa sai chúng con vào trong thế gian đó.
Thế
gian này vàng thau lẫn lộn. Có khi vàng chỉ là lớp mạ bên ngoài. Xin cho chúng
con giữ được bản lãnh của mình, giữ được vị mặn của muối, và sức tác động của
men, để đem đến cho thế gian một linh hồn, một sức sống.
Chúng
con chẳng sợ mình bỏ đạo, chỉ sợ mình bỏ sống đạo vì bị quyến rũ bởi bao thú
vui trần thế. Xin cho chúng con đừng bao
giờ quên rằng chúng con mang dòng máu của các vị tử đạo, những người đã đặt
Chúa lên trên mạng sống.
Lạy
Chúa Giêsu, nếu thế gian ghét chúng con, thì xin cho chúng con cảm thấy niềm
vui của người được diễm phúc nên giống Chúa. Amen.
2.
Sống chứng nhân.
Truyền
thống Giáo Hội bao giờ cũng quý trọng cái chết tử đạo của con cái mình, coi cái
chết đó như vừa nói lên lòng can đảm của người tử đạo, vừa nói lên chiến thắng
của Tin Mừng. Vì thế, khi nâng 117 vị tử đạo Việt Nam lên bậc hiển thánh, Giáo
Hội muốn đưa ra những mẫu gương cho chúng ta bắt chước. Qua cái chết khổ nhục,
các ngài đã làm chứng cho Đức Kitô trong những hoàn cảnh giới hạn của mình. Noi
gương cái ngài, chúng ta cũng hãy sống làm chứng cho Đức Kitô trong hoàn cảnh
riêng của chúng ta. Vậy chúng ta phải sống làm chứng đức tin như thế nào? Tôi
nghĩ rằng chúng ta sẽ làm cho gương mặt cha ông tử đạo của chúng ta thêm sáng
chói, nếu chúng ta biết tích cực sống tử đạo giữa lòng dân tộc. Đây không phải
chỉ là một công thức đẹp, một câu nói đưa duyên, nhưng là một lựa chọn của Giáo
Hội, như thư chung HĐGMVN năm 1980 đã đề ra. Chính vì thế đối với chúng ta thì
đó cũng là một mệnh lệnh. Chúng ta phải biến mệnh lệnh trên thành việc làm.
Hiện
thời chúng ta đang sống trên đất nước Việt Nam, cùng với những người Việt Nam
khác, xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp hơn. Đó là thánh ý nhiệm mầu, làm
sao chúng ta dám cưỡng lại, làm sao chúng ta dám chối từ. Các thánh tử đạo Việt
Nam cũng đã không chạy trốn hoàn cảnh các ngài phải sống. Xã hội trong đó chúng
ta đang sống. Môi trường trong đó chúng ta đang làm việc, những con người hằng
ngày chúng ta gặp gỡ trên mọi nẻo đường, có những điều hay, những cái đẹp, thế
nhưng cũng không thể tránh đi cho hết những cái chưa hay, những điều còn xấu.
Chính vì thế, vai trò đức tin của chúng ta xuất hiện như một nhu cầu cần thiết
và sứ mệnh làm chứng của chúng ta trở thành cấp bách. Chính chúng ta phải tự
vạch ra cung cách sống đạo cho chúng ta trong từng thời điểm, trong từng hoàn
cảnh.
Chẳng
hạn nếu môi trường chúng ta sống chưa hoàn toàn tôn trọng sự thật, thì chúng ta
phải sống sao cho đời thấy rằng chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta như Tin
Mừng đã dạy. Nếu tại những cơ quan chúng ta phục vụ chưa được chí công vô tư,
đầy dãy chuyện móc ngoặc, tham nhũng hối lộ, thì chúng ta phải cố sống sao cho
siêu thoát, chấp nhận sự đạm bạc, không màng chi đến việc làm giàu trên mồ hôi
nước mắt của người khác. Nếu những kẻ có quyền có thế lạm dụng chỗ đứng mà ức
hiếp người dân, thì chúng ta phải biết tôn trọng và giúp đỡ những người chung
quanh, nhất là những kẻ bất hạnh và nghèo đói. Nếu chung quanh chúng ta đời
sống lứa đôi bị coi thường, tình yêu vợ chồng bị hạ xuống hàng trò chơi tạm bợ,
sự sống của con cái, như là kết quả của tình yêu, bị chối bỏ dễ dàng, thì đời
sống gia đình của chúng ta phải thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, vợ chồng thương
yêu nhường nhịn lẫn nhau, con cái được đón nhận như là hồng ân Chúa ban, sự
sống được tôn trọng và yêu thương. Các khó khăn được giải quyết bằng niềm tin,
bằng cầu nguyện chứ không phải bằng đấm đá, bằng đổ vỡ dễ dàng.
Hẳn
nhiên không có cuộc sống làm chứng nào mà không phải thiệt thòi vào thân. Đó là
điều làm cho chúng ta lo ngại nhất, nhưng đó cũng chính là thước đo mức độ lòng
tin của chúng ta vào Giáo Hội. Để làm chứng cho chân lý, cho tình yêu, Đức Kitô
đã phải trả giá bằng cái chết trên thập tự. Cho nên gặp phải khó khăn trong đời
sống chứng nhân là chuyện bình thường, là quy luật của muôn đời. Bởi vì sống
làm chứng là sống tận căn cái nghịch lý mất mạng để được mạng, là sống triệt để
cái biện chứng hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi để làm nẩy sinh nhiều
bông hát. Đó là điều các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã làm và hơn nữa, đó là điều
chính chúng ta cũng phải làm, nếu muốn trở nên chứng nhân cho Đức Kitô.
3.
Để làm chứng cho vua quan – Mt 10, 17-22
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Các
vị tử đạo Việt Nam đều có kinh nghiệm sống từng lời của đoạn Tin Mừng hôm nay:
bị nộp, bị đánh đập, bị điệu ra trước vua quan, bị tra hỏi, bị thù ghét và cuối
cùng là bị giết. Tất cả những gì các ngài phải chịu đều vì Đức Giêsu (c.18), vì
Danh Đức Giêsu (c.22).
Các
ngài cũng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Bầu khí của toà án là
bầu khí của Thiên Chúa Ba Ngôi. "Chính Thần Khí của Chúa Cha sẽ lên tiếng
trong anh em" để tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu (c.19-20)
Cái
chết của vị tử đạo cho thấy sức mạnh của Thiên Chúa được thi thố nơi một con
người mỏng dòn yếu đuối.
Chết
vì Đạo là một cách làm chứng.
-
Làm
chứng cho một niềm tin kiên vững: Vì tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng
Cứu Độ, nên các ngài không bước qua thánh giá.
-
Làm
chứng cho một tình yêu nỏng bỏng: "Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu
của người hiến mạng vì bạn hữu" (Ga 15,13)
-
Làm
chứng cho một niềm hy vọng mãnh liệt: có sự sống đời sau, có hạnh phúc vĩnh
cửu, cái chết đưa tôi giáp mặt với Đấng tôi yêu. Các vị tử đạo đã làm chứng
bằng cái chết.
Chúng
ta được mời gọi làm chứng bằng cuộc sống.Làm chứng nào cũng đòi phải hy sinh,
mất mát, thiệt thòi, vì đòi ta lội ngược dòng với thế gian sa đọa.
Các
vị tử đạo thường bị đặt trước thánh giá. Bước qua là được tiếp tục sống sung
sướng an nhàn. Không bước qua là phải chịu tù đày, đòn vọt, mất tất cả và mất
chính mạng sống. Chỉ cần một bước chân, là mọi sự thay đổi.
Đã
có người bước qua, và cũng có người không. Có người bị khiêng qua thánh giá,
nhưng đã co chân lên, như thánh Antôn Nguyễn Đích. Có người bước qua, nhưng sau
lại hối hận. Đó là trường hợp của ba vị thánh quân nhân: Âutinh Huy, Nicôla Thể
và Đaminh Đạt. Có người được mời giả vờ bước qua thánh giá để quan có cớ mà
tha, như thánh Micae Hồ Đình Hy, nhưng họ đã thắng được cơn cám dỗ tinh vi ấy.
Đứng
trước thánh giá là đứng trước một lựa chọn. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi?
Không có giải pháp dung hoà hay lấp lửng. Giây phút đứng trước thánh giá là
giây phút quan trọng. Quyết định không bước qua thánh giá là kết tinh của những
đêm dài cầu nguyện, của việc chiến thắng những mời mọc khéo léo, của việc thắng
vượt những sợ hãi, giằng co nội tâm, của những Vườn Dầu trong ngục thất...
Thời
nào chúng ta cũng được đặt trước thánh giá, dấu hiệu của sự từ bỏ để phục vụ.
Lúc nào chúng ta cũng có nguy cơ bước qua thánh giá, bằng đời sống hưởng thụ và
ích kỷ của mình.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Làm
chứng bằng cuộc sống. Theo ý bạn, người Công Giáo Việt Nam phải sống thế nào để
làm chứng về Đức Giêsu cho những đồng bào chưa biết Chúa?
·
Bị
cám dỗ bước qua thánh giá, có khi nào bạn có kinh nghiệm đó trong đời thường
không?
Cầu Nguyện
Lạy
các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong
một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm.
Sự
hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào
cõi sống bất diệt. Dù mang phận người yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các
ngài đã chiến thắng khải hoàn.
Xin
cầu cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha
anh trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình
yêu bằng một đời hiến thân phục vụ.
Ước
gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên bằng cuộc sống và cái chết, được
bừng tỏa trên Tổ Quốc Việt Nam.
Ước
gì máu thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo
sinh nhiều hoa trái.
4.
Truyền đạo.
Người
Công giáo Việt Nam thường coi mình là kẻ có đạo và được tiếng là những kẻ giữ
đạo rất nhiệt thành và sốt sắng. Nhưng có lẽ phần đông chúng ta chưa xác tín
rằng: cách giữ đạo tốt nhất là cho người khác cái đạo của mình, như Chúa Giêsu
đã nói: Cố giữ thì mất, liều mất thì còn.
Các
thánh Tử đạo Việt Nam là những người đã sống theo chân lý đó. Các ngài không
phải chỉ là những người có đức tin, những người giữ vững đức tin đến cùng, mà
còn là những người đã cho kẻ khác niềm tin của mình.
Không
có việc trao tặng niềm tin ấy qua việc hy sinh mạng sống của các ngài thì có lẽ
sẽ chẳng có Giáo Hội Việt Nam hôm nay. Tuy nhiên, có nhiều cách cho đi niềm tin
và cách thông thường nhất là chia sẻ bằng lời rao giảng hay bằng những phương
tiện truyền giáo.
Cũng
có một cách khác, tuy âm thầm nhưng hiệu quả cũng không kém, đó là bằng cách
sống niềm tin một cách chân thực. Nhưng cách cuối cùng mà các thánh Tử đạo Việt
Nam đã thực hiện là cho chính sự sống của mình. Trong sự sống được trao tặng đó
có hạt giống của đức tin, tựa hạt của một trái chín, hay như hạt thóc của một bông
lúa đã được gặt hái. Đó là một cách cho trọn vẹn nhất, một cách cho tuyệt đối
nhất, bởi vì không ai có thể đòi lại mạng sống của mình một khi đã dâng hiến.
Hơn
thế nữa, trong những cách thế cho khác, người ta có thể tìm lại được mình trong
chính sự dâng hiến. Thật vậy, kẻ rao giảng Tin mừng có thể gặt hái được thành
quả công cuộc rao giảng và hưởng niềm vui về thành quả đó. Cũng vậy, một người
sống đạo cách chân thực, gương mẫu, có thể được mọi người kính phục và yêu mến.
Còn người cho niềm tin trong cái chết thì không còn để được hưởng những lời ca
tụng tán dương.
Khi
đọc truyện các thánh Tử đạo Việt Nam chúng ta thấy phần đông các ngài không
phải lúc nào cũng muốn chết. Trái lại, nhiều vị đã tìm cách trốn tránh, không
phải vì sợ chết, nhưng vì muốn tiếp tục sống vì người khác và cho người khác,
hoặc cũng có khi vì lòng khiêm tốn, nghĩ mình không xứng đáng được phúc tử đạo.
Các ngài đã chấp nhận dâng hiến đời mình, chứ không tự mình tìm đến cái chết.
Đối
với chúng ta ngày nay, ngoài một vài trường hợp đặc biệt như ở Algérie hay tại
một vài nước Hồi giáo cực đoan, nơi các tôn giáo ngoài Hồi giáo có thể bị bách
hại, còn khắp nơi trên thế giới hầu như không còn có chế độ nào được coi như
cấm đạo thực sự kiểu Nêrô hay Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức.
Nhưng
nếu hiểu đạo theo nghĩa rộng, thì vẫn còn có nhiều người tử đạo. Đó là những
người dám chết cho công lý, cho hòa bình. Nói chung là chết vì chính đạo, chết
cho con người, nhất là những người nghèo khổ hay bị áp bức. Đức Kitô cũng đã
chết cho cái chính đạo ấy chứ không phải chết vì đạo của người Do Thái, lại
càng không chết vì đạo của mấy ông tư tế và Biệt phái, bởi vì chính những người
này đã chủ mưu giết Ngài vì thấy rằng Ngài là mối đe dọa cho tôn giáo của họ.
Ngày
nay, khi Giáo Hội Công giáo chuẩn bị hồ sơ phong chân phước cho Savonarole, một
linh mục dòng Đaminh ở Florence, thì điều đó chứng tỏ rằng cả những người trước
đây bị giáo quyền kết án, cũng chính là những vị tử đạo, bởi vì họ đã sống theo
chân lý và hy sinh tính mạng để bảo vệ cho chân lý, cho chính đạo.
Dân chúng Ấn Độ đã tặng cho ông Gandhi
danh hiệu là thánh, không phải ông đã chết vì Ấn độ giáo hay bất kỳ tôn giáo
nào, mà chết vì đấu tranh cho hòa bình, hòa hợp và hòa giải giữa hai cộng đồng
Ấn độ giáo và Hồi giáo. Và mục sư Martin Luther King cũng thật xứng đáng danh
hiệu một vị thánh vì đã chết để bênh vực quyền tự do và bình đẳng của người da
đen… trên đất nước được mệnh danh là dân chủ và tự do nhất thế giới, nhưng thực
ra chỉ là tự do và dân chủ cho người da trắng mà thôi.
Đức Tổng giám mục Rômêrô bên El
Salvador đã bị chính những người lính Công giáo bắn chết đang khi dâng thánh
lễ, ngài bị giết không phải vì là người có đạo hay là vì giám mục, mà vì đã can
đảm ủng hộ chính nghĩa của dân nghèo. Người ta hy vọng ngày gần đây, ngài sẽ
được tôn phong lên hàng thánh tử đạo.
Như
vậy, tử đạo là dám sống và dám chết cho một lý tưởng của Tin mừng. Thế nhưng
liệu chúng ta có dám sống và dám chết như vậy hay không?
5.
Con đường hạt lúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Ga 12, 20-32
Khi đến Rôma, tôi thích đi viếng những
hang toại đạo. Hang toại đạo là hệ thống đường hầm đào sâu dưới lòng đất tại
các khu nghĩa trang ngoại thành Rôma. Những hang hầm dài nhiều cây số. Không
phải chỉ một tầng mà đến 3, 4 tầng sâu dưới lòng đất. Không khí trong hang thật
lạnh lẽo. Hơi lạnh từ lòng đất toát ra cộng với hơi lạnh từ những nấm mồ càng
làm cho khu hầm mộ trở nên lạnh lẽo đáng sợ. Người sống phải đấu tranh với cái
chết. Sự chết luôn đe doạ rình rập cướp lấy mạng sống con người. Tại nơi đây,
các tín hữu sơ khai đã ẩn trốn những cơn bách hại liên tiếp trong 3 thế kỷ. Có
lẽ thánh Phêrô và thánh Phaolô cũng đã từng đi lại sinh hoạt trong những hang
này. Người tín hữu sơ khai đã phải sống trong những điều kiện như thế để bảo vệ
đức tin của mình.
Nhưng
thật kỳ diệu. Các vua chúa của đế quốc Rôma hùng mạnh đã tìm cách tiêu diệt một
nhóm người nghèo khổ yếu ớt không một tấc sắt tự vệ. Không phải chĩ bắt bớ
trong một chiến dịch ngắn hạn mà là một chủ trương kéo dài suốt 300 năm. Vậy mà
các vua chúa qua đi rồi, nhóm người nghèo khổ yếu ớt đó không những chỉ tồn tại
mà còn phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Đi dưới lòng hang toại đạo tôi mới
thấm thía ý nghĩa của lời Chúa nói: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết
đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác”. Hạt giống Giáo Hội đã bị chôn chặt dưới 3, 4 tầng đất. Hạt giống đức tin
đã bị vùi sâu đến 300 năm. Tất cả các thánh Tông đồ, các tín hữu sơ khai đã bị
mục nát. Và các ngài đã làm trổ sinh cả một mùa gặt dồi dào phong phú. Cả châu
Âu đã tin theo Chúa.
Nhìn
lại lịch sử Giáo Hội Việt Nam, ta cũng thấy có sự tương tự. Khi đạo Chúa mới
được truyền vào Việt Nam, lập tức bị các vua chúa phong kiến bắt bớ. Cuộc bắt
bớ kéo dài khoảng 300 năm. Đủ mọi hình thức để tiêu diệt đạo. Nào là cấm cách
bắt bớ. Nào là đe doạ bạc đãi. Nào là xua đuổi ra khỏi những vùng trù phú phồn
vinh. Nào là phân sáp, tức là tách ly cha mẹ, anh chị em trong một gia đình bắt
đi sống riêng rẽ trong các gia đình ngoại đạo. Nào là lấy thép nung đỏ khắc chữ
“tả đạo” trên má ngưới có đạo. Và nhất là lên án tử hình những người có đạo.
Người tín hữu trung thành với đức tin phải trốn chạy chết trên rừng thiêng nước
độc. Nếu bị bắt có thể bị chết trong tù. Nếu không cũng bị xử án tử hình. Có
đấng bị chém đầu. Có đấng bị trói chân tay vào chân ngựa. Bốn con ngựa kéo về
bốn góc xé nát xác vị tử đạo. Có đấng bị kết án cho voi dày. Thê thảm nhất có
lẽ là án bá đao. Cứ sau một hồi chiêng trống, đao phủ xẻo một miếng thịt cho
đến khi chết.
Dù
các vua chúa đã dùng đủ mọi cách tiêu diệt nhóm người bé nhỏ yếu ớt trong 300
năm. Trong 3 thế kỷ đó có khoảng 100 ngàn người chịu chết vì đạo. Nhưng số
người tin Chúa ngày càng gia tăng. Từ một nhóm nhỏ người bị bắt bớ, nay số tín
hữu tại Việt Nam đã hơn 6 triệu người. Hạt giống đức tin gieo trồng vào quê
hương Việt Nam đã bị vùi sâu, đã bị mục nát, và nay đã trổ sinh một mùa gặt
phong phú. Một lần nữa chúng ta lại xác tín lời Chúa dạy: “Nếu hạt lúa gieo vào
lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới
sinh được nhiều hạt khác”.
Nhìn
lại lịch sử, ta càng thêm tin tưởng vào Lời Chúa. Nếu đang gặp khó khă trong
đời sống đạo, ta hãy an tâm. Như Đức Giêsu đã chịu gian nan khốn khó, phải chịu
bắt bớ, nhục mạ, phải chịu chết tủi hổ trên Thánh giá, các môn đệ con cái Chúa
không thể đi con đường nào khác ngoài con đường Thánh giá. Như các bậc tiền
nhân xưa đã chịu vất vả khổ cực để xây dựng một Giáo Hội vững mạnh như ngày
nay, ta tin tưởng những gian nan khốn khó của ta rồi cũng sẽ trôi qua. Nếu ta
biết chịu đựng những đau đớn, khó khăn, vất vả vì Chúa. Nếu ta vẫn trung thành
với Chúa, với đức tin qua mọi gian nan thử thách, chắc chắn Chúa sẽ ban cho ta
một mùa gặt bọi thu, kết quả phong phú ngoài sức tưởng tượng của ta.
Lạy
Các Thánh Tử đạo Việt Nam, xin dạy con noi gương bắt chước các ngài, luôn trung
thành với Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1-
Khi
mới khai sinh Giáo Hội đã bị bách hại trong 3 thế kỷ. Nhưng Giáo Hội vẫn phát
triển. Điều này dạy ta điều gì?
2-
Hãy
tóm tắt 3 thế kỷ đầu của Giáo Hội Việt Nam.
3-
Muốn
đạo Chúa phát triển ta phải làm gì?
6. Chứng nhân tình yêu – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Thánh
lễ hôm nay đỏ một mầu máu. Máu của hơn 100 ngàn anh hùng tử đạo. Máu của 117 vị
đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Máu ngập tràn chảy suốt hơn 3 thế kỷ truyền
giáo tại Việt Nam.
Có
điều máu lênh láng nhưng không tanh tưởi bởi không phải là thứ máu oan khốc nơi
chiến trường tuôn chảy trong hờn căm oán ghét. Máu đẹp như những cánh hoa vì
phát xuất từ tình yêu cao quí. Máu dường như toả hương thơm bởi khơi nguồn từ
những trái tim chan chứa yêu thương. Máu không gây ghê tởm nhưng gợi lòng kính
trọng. Máu không tạo oán thù nhưng vực dậy yêu thương. Đó là những dòng máu làm
chứng cho tình yêu.
Tình yêu Thiên Chúa.
Các
thánh Tử Đạo Việt Nam có lòng tin mạnh mẽ. Lòng tin của các ngài không biểu lộ
trong những hành vi cuồng tín, nhưng diễn tả trong thái độ chan chứa yêu
thương. Đã nhận biết Chúa, các ngài yêu mến Chúa tha thiết. Đã cảm nhận được
tình yêu của Chúa các ngài mong muốn được đáp đền tình yêu đó.
Tình
yêu của các ngài là tình yêu hy sinh. Nên các ngài đã từ bỏ tất cả: cuộc sống
yên ổn, danh vọng tiền tài, kể cả mạng sống vì Chúa. Thánh Hồ đình Hy sẵn sàng
chịu mất chức trong triều đình. Thánh Tôma Thiện vui lòng dâng hiến tuổi xuân
xanh với những lời hứa hẹn chức quyền của vua quan. Thánh nữ Anê Lê thị Thành
mạnh dạn từ bỏ gia đình êm ấm với những người con ngoan ngoãn dễ thương. Tất cả
vì tình yêu Chúa.
Tình
yêu của các ngài là tình yêu chung thuỷ. Các ngài yêu mến Chúa khi bình an, các
ngài càng yêu mến Chúa trong những gian nan thử thách. Các ngài đã thực hiện
lời thánh Phao-lô: Tôi tin chắc rằng: cho dầu là sự chết hay sự sống, thiên
thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, hoặc bất cứ sức mạnh nào,
trời cao hay vực thẳm hay bất cứ một loài thọ tạo nào khác, không có gì tách
được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su,
Chúa chúng ta (Rm 8,35-39).
Tình
yêu của các ngài là tình yêu cao quí. Đáp lại tình yêu của Đức Giêsu Kitô đã
hiến thân vì các ngài, các ngài cũng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu
với Chúa. Đúng như lời Chúa nói: Không có tình thương nào cao cả hơn tình
thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình (Ga 15,13).
Tình yêu cuộc sống.
Các
ngài là những người yêu mến cuộc sống. Không phải một cuộc sống tầm thường
nhưng là cuộc sống với tất cả những chiều kích cao đẹp của nó. Cuộc sống với
những giá trị thiêng liêng như lý tưởng, như tình yêu, lòng trung tín. Một cuộc
sống không nô lệ cho vật chất. Một cuộc sống trung thực không giả dối. Một cuộc
sống không bị đóng khung trong thế giới hữu hạn mau tàn nhưng mở ra đến vĩnh
cửu. Một cuộc sống không hạ con người xuống nhưng nâng con người lên ngang với
các thần thánh. Thật sự yêu mến cuộc sống nên các ngài sẵn sàng hy sinh tính
mạng để làm chứng, để bảo vệ và xây dựng.
Tình yêu nhân loại.
Cái
chết của các ngài minh chứng một tình yêu vô biên đối với nhân loại. Các ngài
không chỉ yêu mến Chúa mà còn yêu mến gia đình. Hãy nhìn cảnh thánh Lê văn
Phụng hoặc thánh nữ Lê thị Thành an ủi con cháu trước khi ra pháp trường. Tình
yêu thương của các ngài lan cả tới lính gác, cai tù và lý hình. Thánh Lê văn
Phụng chữa bệnh cho người cai tù của mình. Tất cả các thánh vui vẻ ra đi chịu
chết. Không có ai tỏ lòng oán hận. Và nhất là không có vị nào thù ghét các lý
hình.
Tình
yêu của các ngài phát xuất từ tình yêu Chúa nên rộng rãi toả lan tới mọi người,
mọi nơi các ngài sinh sống. Tình yêu ấy là tình yêu nguyên tuyền nên không biết
đến sự thù ghét, nên sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình. Tình yêu ấy như bông
hoa vẫn toả hương trong tay kẻ vò nát nó. Tình yêu ấy giống như loài gỗ quí vẫn
phả hương thơm cả đến chiếc rìu bổ vào nó (Fulton Sheen).
Động
lực hướng dẫn cuộc đời các ngài là tình yêu. Cái chết của các ngài làm chứng
cho tình yêu. Đó chính là điều mà ta có thể bắt chước các ngài. Trong hoàn cảnh
hiện nay, ta không có hy vọng được phúc tử đạo, nhưng ta vẫn có thể noi gương
các thánh Việt Nam làm chứng cho đạo Chúa. Nếu ta không được chết cho tình yêu,
ta vẫn có thể sống cho tình yêu. Có lẽ ngày nay Chúa cũng không mong ta chết vì
đạo mà mong ta hãy sống vì đạo.
Lạy
các thánh Tử Đạo Việt Nam, xin chúc lành cho quê hương và Giáo Hội Việt Nam.
Amen
7. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
SỐNG CHỨNG NHÂN TIN MỪNG
Hôm
nay Giáo Hội Việt Nam hân hoan và hãnh diện mừng kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam
vì 3 lý do:
-
Hân
hoan và hãnh diện vì các thánh là người Việt Nam, không gì vui mừng và hãnh
diện, tự hào hơn, khi đất nước ta có những vị thánh góp mặt với Giáo Hội toàn
cầu.
-
Hân
hoan và hãnh diện vì số lượng đông đảo các Thánh Việt Nam. Với 117 vị Thánh.
Giáo Hội Việt Nam được xếp nhất nhì trong Giáo Hội hoàn vũ về số lượng các
Thánh.
-
Hân
hoan và hãnh diện vì các Ngài là những chứng nhân anh hùng quả cảm.
Đọc
lại tiểu sử các Ngài ta không khỏi cảm phục đức tin kiên cường của các Ngài. Vì
trung thành với Chúa, các Ngài đã cam chịu thiệt thòi trong đời sống, mất hết
chức quyền danh vọng và nhất là phải chịu muôn ngàn khổ hình, chịu mất mạng
sống vì đức tin.
Có
những vị như thánh Hồ đình Hy, làm quan lớn trong triều đình. Quan Án Phạm
trọng Khảm, là những vị có chức có quyền trong xã hội đã thà mất chức quyền,
mất danh vọng hơn mất đức tin. Vì Chúa, các Ngài không những đã sẵn sàng từ bỏ
mọi quyền lợi trong xã hội mà còn sẵn sàng chịu mất mạng sống.
Có
những vị như thánh Lê thị Thành, thân phận phụ nữ yếu ớt, gánh nặng gia đình,
nhưng cũng đã sẵn sàng chịu mọi cực hình để minh chứng tình yêu đối với Đức
Giêsu Kitô.
Có
những vị đầu xanh tuổi trẻ như Tôma Thiện, Phaolô Bột, mười mấy tuổi đầu, tương
lai còn dài, đường đời còn nhiều hứa hẹn. Nhưng các Ngài đã cương quyết khước
từ tất cả, dâng hiến tuổi thanh xuân cho đức tin chân chính.
Là
người Công Giáo Việt Nam. Chắc chắn mỗi khi đọc lại tiểu sử các Ngài, ta cảm
thấy một dòng máu hào hùng trào dâng trong huyết quản. Bị cuốn hút bởi cuộc
sống và cái chết cao đẹp, anh dũng của các Ngài, có lẽ ta cũng có đôi lần ao
ước được như các Ngài: Sống cao đẹp, chết anh dũng.
Làm
sao ta có thể có được cái chết cao đẹp như các Ngài. Ngày nay đâu còn cảnh cấm
đạo, bắt đạo, giết người có đạo như thời vua quan ngày xưa. Ngày nay ta không
còn hy vọng chết vì đạo. Ta chỉ còn một cách bắt chước, noi gương các vị tiền
nhân anh hùng, đó là sống vì đạo.
Ngày
nay, ta ít gặp những khốn khó như bị bắt bớ giam cầm, giết chết vì đạo. Nhưng
để sống đạo trong xã hội hôm nay, ta gặp không ít khó khăn. Xin kể ra 2 khó
khăn tiêu biểu.
Khó
khăn thứ nhất đó là chủ nghĩa cá nhân ngày càng phát triển. Ai cũng muốn thăng tiến bản thân và
gia đình của mình. Ai cũng lo làm ăn. Học hành, xây dựng cho bản thân. Cuộc
cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Những nhu cầu của bản thân ngày càng nhiều. Rõ
ràng là ngày nay người ta kiếm được nhiều tiền hơn trước, có nhiều tiện nghi
hơn trước, xe cộ tốt hơn, nhà cửa đẹp hơn. Nhưng chưa bao giờ người ta thấy thỏa
mãn, đầy đủ. Vì thế càng ngày người ta càng đóng kín vào bản thân, không có
thời giờ nghĩ đến người khác. Trong khi đó những người nghèo thì càng nghèo
hơn, những người yếu càng mệt hơn, những người bệnh càng khổ hơn. Họ không đủ
sức chạy theo cuộc tranh đua quyết liệt của chủ nghĩa cá nhân. Họ bị đẩy lùi ra
phía sau. Họ bị gạt ra ngoài lề xã hội. Để lựa chọn sống theo Phúc Âm, để trung
thành với Lời Chúa dạy, ta phải bỏ quên một phần thân mình, gia đình mình để
nghĩ đến, giúp đỡ, vực dậy những anh em kém may mắn. Đó là điều không dễ.
Khó
khăn thứ hai là kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Đồng tiền đang trở thành một thước
đo gía trị con người. Đồng tiền đang trở thành một quyền lực chi phối toàn bộ
đời sống con người. Ai cũng muốn có nhiều tiền, và để có nhiều tiền, nhiều
người đã không từ chối một phương cách nào: lường gạt, lừa đảo, làm hàng gỉa,
buôn thuốc phiện, tham nhũng, hối lộ. Tiền bạc quả là một cơn cám dỗ đang làm
chao đảo thế giới, tàn phá những giá trị, biến chất con người.
Đứng
trước nhu cầu và ham mê tiền bạc, người Công Giáo muốn trung thành với Phúc Âm,
muốn sống trọn vẹn đức tin, bắt buộc phải có sự lựa chọn. Thà cam chịu nghèo
khổ còn hơn nhận những đồng tiền phi nhân bất nghĩa. Thà cam chịu thiếu thốn
còn hơn đánh mất đức tin. Thà lao động cực khổ để kiếm miếng cơm manh áo chân
chính hơn là chạy theo những đồng tiền dễ dãi để chối từ Phúc Âm và Luật Chúa.
Quả
thực xã hội mới, đang tạo ra những cơn bắt bớ mới. Để trung thành với Chúa, với
Phúc Âm ta cũng phải lực chọn quyết liệt. Những chọn lựa đó làm cho chúng ta
đau đớn không kém gì những khổ hình. Những hy sinh vì Phúc Âm đó cũng khiến
lòng ta rỉ máu không kém gì chịu tử hình. Các Thánh tử đạo chỉ chọn lựa một
lần. Còn chúng ta chết mòn mỏi mỗi ngày trong những chiến đấu, những từ bỏ đớn
đau. Sống Phúc Âm trong thời đại mới đúng là một cuộc tử đạo liên tục.
Sống
vì đạo như thế cũng cao đẹp và anh hùng không kém gì chết vì đạo. Sống vì đạo
như thế, ta cũng góp phần làm chứng nhân cho Chúa, cho Phúc Âm không kém gì
chết vì đạo.
Lạy
các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xưa các Ngài đã anh dũng hy sinh cuộc đời, dâng hiến
máu đào làm chứng cho Phúc Âm. Xin giúp chúng con hôm nay cũng biết can đảm, hy
sinh sống theo Phúc Âm để làm chứng cho Chúa trong đời sống hằng ngày. Amen.
8.
Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì
(Mt 10, 17-22)
Qua
những lời Chúa Giêsu loan báo cho các môn đệ về những bách hại gặp phải và thái
độ phải có khi đối diện với những bách hại này. "Đừng lo sợ phải nói gì và
nói thế nào, vì Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho biết phải nói gì". Sự bách
hại là số phận không thể tránh được của người đồ đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp
của người đồ đệ của Chúa phơi bày những tật xấu của thế gian.
Tác
giả Phúc Âm theo thánh Gioan viết rõ ra lý do của sự thù nghịch giữa thế gian
và người đồ đệ như sau: "Nếu thế
gian ghét các con, các con nên nhận biết rằng thế gian đã ghét Thầy trước các
con. Nếu các con thuộc về thế gian thì thế gian sẽ yêu những gì thuộc về nó,
nhưng vì các con không thuộc về thế gian và vì Thầy đã chọn các con và tách các
con ra khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con. Các con hãy nhớ lời Thầy dạy
bảo: "Tôi tớ không trọng hơn chủ". Nếu họ đã bắt bớ Thầy, chắc chắn
họ sẽ bắt bớ các con".
Người
đồ đệ được đồng hóa với Chúa Giêsu và chia sẻ số phận của Ngài, nhưng người đồ
đệ cảm thấy mình như là yếu đuối, không sức mạnh để tự mình chống lại những
bách hại. Sự yếu hèn của môn đệ là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì biết mình yếu
đuối, người đồ đệ hết lòng tin tưởng vào Chúa, sống gắn bó với Người.
Phúc
Âm theo thánh Mátthêu đã được viết ra sau cuộc bách hại đầu tiên mà cộng đoàn
Giáo Hội đầu tiên đã trải qua, như cuộc bách hại và tử đạo của thầy Stephano
tại Giêrusalem. Các tông đồ cũng đã từng bị tù rồi chịu chết vì đạo. Phản ứng
tự nhiên của con người trước những khó khăn, những bách hại là lo sợ. Và Chúa
Giêsu tiếp tục khuyên các tông đồ hãy can đảm làm chứng cho Ngài. Người đồ đệ
của Chúa cần sẵn sàng cho mọi nghịch cảnh xảy ra.
Trong
đoạn Phúc Âm chúng ta đọc trên đây, chúng ta có thể ghi nhận là Chúa Giêsu đã
kêu gọi "đừng sợ" đến ba lần:
-
"Các
con đừng sợ những kẻ vu oan vì không có gì ẩn khuất mà không bị lộ, vì sự thật
luôn là sự thật".
Trung
thành với sự thật đôi khi làm ta phải trả một giá rất đắt và có khi phải trả cả
bằng chính mạng sống mình.
-
Lần
thứ hai Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ và đừng sợ những kẻ có thể làm
hại thân xác, làm thiệt thòi cho phần vật chất, nhưng không thể nào giết được
linh hồn".
Lý
do sâu xa của lòng can đảm Phúc Âm mà Chúa muốn cho các đồ đệ là quan niệm đích
thực về con người, bao gồm thể xác và linh hồn. Thể xác, vật chất có thể bị
thiệt thòi, nhưng linh hồn, tinh thần của con người sẽ không hề hấn gì nếu
người đó vững lòng tin tưởng vào Chúa.
-
Lần
thứ ba Chúa Giêsu nhắc: "Các con đừng sợ vì lý do các con quí trọng hơn
chim sẻ nhiều. Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự, Ngài chăm lo cho chim sẻ
ngoài đồng thì huống hồ là con người cao trọng hơn mà không được Thiên Chúa
chăm sóc cho hay sao".
Đó
là ba lý do để đừng lo sợ và hãy tin tưởng vào Thiên Chúa quan phòng. Ý thức
mình được Thiên Chúa yêu thương chăm sóc, người đồ đệ sẽ nhất quyết dấn thân
nhiều hơn, dấn thân làm chứng cho Chúa.
"Ai
nhìn nhận Thầy trước mặt mọi người, thì Thầy cũng nhìn nhận người ấy trước mặt
Cha Thầy ở trên trời". Đó là những lời dạy của Chúa Giêsu cho những đồ đệ
đầu tiên ngày xưa, những vẫn luôn còn giá trị cho những đồ đệ của Chúa ngày hôm
nay. Đừng sợ gian nan thử thách để theo Chúa, đó là sự can đảm của người Kitô
qua mọi thời đại.
Lạy
Chúa,
Xin
giúp con mở rộng mọi cửa nẻo tâm hồn để đón nhận Chúa đến sống với chúng con,
để ban sức mạnh cho chúng con. Xin vì công nghiệp các thánh Tử Đạo Việt Nam,
xin Chúa ban cho mỗi người chúng con được trở thành những chứng nhân trung
thành của Chúa trong mọi hoàn cảnh.
9.
Tử đạo hay sống đạo?
Nếu
như anh chị chúng ta là những người giàu có và thành công trên đường đời, hẳn
chúng ta sẽ lấy làm hãnh diện. Nếu cha mẹ chúng ta là những người tốt lành và
thánh thiện, hẳn chúng ta cũng sẽ rất lấy làm hãnh diện. Cũng thế, hôm nay khi
mừng kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta càng phải hãnh diện hơn nữa vì
các ngài những bậc cha ông của chúng ta đã lấy mạng sống cùng với những giọt
máu đào để làm chứng cho Chúa.
Thực
vậy, Giáo Hội Việt Nam đã góp phần vào tiến trình chung của Hội Thánh Công giáo
những trang sử hào hùng và dũng cảm.
Bên
Âu Châu, thời kỳ đen tốt nhất Giáo Hội đã phải trải qua chính là thời kỳ Giáo
Hội còn phôi thai, trải dài từ cuối thế kỷ thứ nhất đến đầu thế kỷ thứ tư, từ
triều Nêron đến triều Maximinus. Suốt trong khoảng thời gian này, Giáo Hội đã
bị bắt bớ và cấm cách. Biết bao nhiêu người đã chết hay đã ngã gục trên pháp
trường. Những người muốn sống sót đều phải chui rúc dưới những hang, được gọi
là hang toại đạo., hiện nay vẫn còn tìm thấy tại Roma. Các sử gia đã gọi đó là
thời kỳ Giáo Hội sống dưới hầm. Nhưng sau cùng, Giáo Hội đã chiến thắng với
biến cố hoàng đế Constantinô trở lại và ngọn cờ thập giá được tung bay trên
toàn đế quốc La mã.
Nếu
so sánh, chúng ta thấy Giáo Hội Việt Nam cũng có những điểm thật giống với Giáo
Hội Rôma. Đó là ngay sau khi hạt giống Tin mừng được gieo vãi trên đất nước
này, thì lập tức gông bão đã nổi lên. Từ thời vua Lê chúa Trịnh cho tới những
triều đại nhà Nguyễn, trải dài gần ba trăm năm. Trong suốt thời gian này, biết
bao nhiêu người đã bị nhà tan cửa nát, phải di tản vào những nơi rừng thiêng
nước độc, như các giáo dân vùng La Vang, Quảng Trị. Biết bao nhiêu người đã
phải chịu những cực hình khủng khiếp. Trong số đó, có 117 vị đã được nâng lên
hàng hiểm thánh. Ai cũng tưởng rằng ngọn lửa Phúc âm sẽ bị dập tắt. Thế nhưng,
máu các thánh tử đạo là hạt giống nảy sinh các tín hữu. Vì thế, Giáo Hội Việt
Nam đã lớn lên và trưởng thành trên nền móng vững chắc ấy, xứng đáng được gọi
là trưởng nữ của các Giáo Hội tại Á châu. Tuy nhiên, hãnh diện mà thôi chưa đủ,
chúng ta còn phải noi gương bắt chước các ngài, bởi vì con nhà tông không giống
lông cũng giống cánh. Đừng vì một con sâu mà làm rầu nồi canh, đừng vì cuộc
sống tội lỗi của chúng ta mà làm nhơ bẩn khuôn mặt Giáo Hội Việt Nam. Hãy sống
thế nào để xứng đáng là con cháu của những bậc anh hùng tử đạo.
Hồi
còn bé, tôi rất thích đọc hạnh các thánh tử đạo và thầm mong một ngày nào đó,
tôi cũng đưa cổ cho lý hình chém một nhát và thế là nghiễm nhiên trở thành
thánh tử đạo. Thế nhưng, lớn lên tôi mới nghiệm ra rằng: mơ ước như vậy chỉ là
một sự hão huyền, bởi vì không phải thời buổi nào cũng có những cấm cách. Hơn
thế nữa, hành động chịu chết vì đạo là một hành động cao cả và tuyệt vời nhất,
như lời Chúa Giêsu đã xác quyết:
-
Không ai yêu hơn người hiến mạng sống
mình vì bạn hữu.
Hành
động cao cả và tuyệt vời này phải là kết quả của những tháng ngày sống niềm tin
yêu và thấm nhuần đạo đức. Không phải một sớm một chiều mà một thằng quỷ có thể
trở nên một vị thánh. Không phải hễ có bắt bớ là mọi người đều có thể tử đạo,
bởi vì sống sao chết vậy, cây xiêu chiều nào sẽ đổ theo chiều ấy.
Kinh
nghiệm cho hay mổi khi có những khó khăn xảy ra, thì rất nhiều kẻ đã trở cờ,
chối bỏ Chúa. Họ chối bỏ Chúa chỉ vì chén cơm manh áo, họ chối bỏ Chúa chỉ vì
một chút địa vị xã hội, họ chối bỏ Chúa chỉ vì muốn chạy theo những dục vọng
thấp hèn. Thế nhưng, lý do chính yếu, là như phần chìm của tảng băng, đó là họ
đã không thực sự sống đạo, đã không thực sự sống niềm tin của mình. Cũng giống
như khi xây nhà, nếu không đổ nền đổ móng cho vững chắc, thì chẳng bao lâu căn
nhà sẽ bị sụp đổ. Vì thế, chúng ta nên hiểu tử đạo theo một nghĩa rộng, đó là
làm chứng cho Chúa. Chúng ta có thể làm chứng cho Chúa bằng hành động, bằng
việc làm, bằng chính cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của
chúng ta. Đó chính là cái nền tảng vũng chắc để xây dựng tòa nhà đức tin. Chính
trong ý nghĩa này mà Mẹ Maria đã được gọi là Nữ vương các thánh tử đạo, mặc dù
Mẹ đã không đổ máu để làm chứng cho đức tin của mình.
Hãy
tập sống tinh thần tử đạo bằng cách thực hiện những điều tốt lành, bởi vì mỗi
khi hành động như vậy là chúng ta đã tuyên xưng niềm tin của chúng ta. Hơn thế
nữa, mỗi hy sinh chúng ta chịu trong khi phục vụ và giúp đỡ người khác sẽ là
như một giọt máu tử đạo chúng ta đổ ra từng giây và từng phút để làm chứng cho
Chúa. Hãy sống đạo, sống niềm tin của mình. Nếu cha ông chúng ta đã tuyên xưng
niềm tin bằng cái chết anh hùng, thì khi sống đạo, chúng ta cũng tuyên xưng
niềm tin của chúng ta bằng chính cuộc sống ngập tràn tình bác ái yêu thương của
chúng ta.
10.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm.
Ngày
24 tháng 11, là ngày lễ thánh linh mục tử đạo Anrê Dũng Lạc. Giáo Hội Việt Nam
đã xin Giáo Hội hoàn vũ để mừng lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam vào ngày này, và
nhận Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. Vì là bổn mạng
của Giáo Hội Việt Nam, nên lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam là lễ trọng và được dời
vào ngày Chúa Nhật. Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ là lễ Kitô Vua, nên lễ
Các Thánh Tử Đạo Việt Nam được mừng vào Chúa Nhật trước lễ Kitô Vua.
Các
thánh tử đạo là những người dám chết để làm chứng Thiên Chúa yêu thương con
người. Các ngài là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa đang làm những điều kỳ diệu nơi
những con người yếu đuối mỏng dòn.
Đời
sống trong sáng đáng quý như châu ngọc
Bài
đọc thứ nhất trong sách Maccabêô quyển thứ hai, thuật chuyện một người đáng
kính, từ chối không ăn thịt heo cho dù phải chết. Ông được nhiều người quý mến
nên đổi thịt heo thành thịt mà luật cho phép ăn, rồi đề nghị ông giả vờ ăn thịt
heo để thoát chết. Êlêazarô từ chối mánh khóe để được sống này, vì khi làm như
vậy gây gương xấu cho thế hệ tương lai. Thế hệ trẻ đâu biết đó không phải là
thịt heo, nên tưởng rằng Êlêazarô tham sống sợ chết mà vi phạm luật Chúa.
Thái
độ sống của Êlêazarô rất trong sáng, rất tự do ngay cả đối với cái chết. Ông
cũng là người cho thấy tình yêu và trách nhiệm đối với thế hệ tương lai. Nơi
con người mỏng dòn, Thiên Chúa đã và đang làm những điều tuyệt vời. Các thánh
tử đạo Việt Nam cũng là những người sống thái độ tự do và yêu mến như vậy. Các
ngài là những người cha, người mẹ, người chồng, người vợ, người con hiếu thảo
và tốt lành; tuy vậy các ngài sẵn sàng chấp nhận cái chết vì yêu mến Thiên
Chúa, yêu mến con người và những người thân.
Cái
chết của các ngài, làm rạng danh gia tộc, giúp cho những người con người chồng
người vợ nhìn lên tấm gương của những bậc cha anh thân yêu mà phấn đấu sống cho
nên người và nên người con ngoan của Chúa. Các thánh tử đạo là những người ảnh
hưởng rất lớn trên thế hệ tương lai mà nhiều người không thấy rõ điều này, khi
cho rằng các ngài chết thì đâu có dạy dỗ hoặc ảnh hưởng gì được trên ai. Nơi
các anh hùng tử đạo, lời dạy không bằng ngôn từ nhưng bằng chính cuộc sống. Và
chúng ta biết, lời bằng hành động hay cuộc sống thì có sức thuyết phục hơn lời
nói nhiều.
Không
có gì tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa
Bài
đọc thứ hai trong thư của thánh Phaolô gởi tín hữu Roma, cho thấy xác tín của
thánh nhân. Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, và không có gì có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu. Bằng cớ cho thấy Thiên
Chúa yêu thương chúng ta vô cùng, đó là Ngài đã ban chính Con Một Ngài cho
chúng ta. Nếu Thiên Chúa ban chính Con Một Ngài cho chúng ta, thì Ngài còn tiếc
gì với chúng ta nữa?
Không
có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa. Không phải vì chúng ta yêu
Thiên Chúa đến độ không có gì tách chúng ta khỏi tình yêu của Thiên Chúa, nhưng
vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta, Thiên Chúa giữ chúng ta trong tình yêu của
Ngài. Nếu chính Thiên Chúa giữ, thì ai giựt chúng ta ra khỏi tay Thiên Chúa
được? Nếu chỉ là bản thân con người ghì chặt Thiên Chúa, thì người mạnh hơn có
thể giựt họ ra được, nhưng đây chính Thiên Chúa giữ. “Không ai có thể tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Yêsu Kitô”. Không ai, cho dù
đó là thiên thần hay quỷ dữ, bất cứ quyền lực nào cũng không thể làm điều này,
vì Thiên Chúa là Đấng vô cùng mạnh.
Vì
tin vào Thiên Chúa yêu thương tôi, nên tôi vững dạ an tâm, nên tôi ung dung thư
thái bất chấp tất cả. “Nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, chính là Chúa”.
“Đức Chúa là ánh sáng và Đấng cứu độ tôi, tôi còn sợ chi ai, tôi còn kinh khiếp
chi ai”! Chính Thiên Chúa làm cho các thánh tử đạo trung thành với Ngài, cho dù
“kiếm sắc, đầu rơi, gươm đao, xá gì”. Thiên Chúa là Đấng trung thành, Ngài sẽ
hoàn tất những gì Ngài đã khởi sự nơi chúng ta.
Vác
thập giá hằng ngày mà theo Ta
Đức
Yêsu nói trong tin mừng theo thánh Luca: “ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác
thập giá hằng ngày mà theo Ta”. Theo Đức Yêsu, là một thái độ sống liên lỉ chứ
không chỉ là một hành vi riêng lẻ một lần cho tất cả. Để có thể có hành vi dám
chết cho tình yêu, các anh hùng tử đạo đã luôn chết cho chính mình trong cuộc
sống hằng ngày để sống cho Chúa trong từng hành vi sống của mình.
“Được
lời lãi cả thế gian, mà phải mất mạng sống mình, thì ích gì?” Điều quan trọng
là phải sống. Nhưng nếu chỉ sống một trăm năm, mà phải khổ nhục vĩnh viễn thì
ích lợi gì? Sự khôn ngoan đi kèm với hành vi anh hùng nơi các thánh tử đạo. Các
thánh tử đạo, là những người khôn ngoan, anh hùng và đức hạnh. Các ngài là
những người dám sống và dám chết cho tình yêu. Các ngài chọn đời sống vĩnh cửu
hơn đời sống chóng qua này.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Tại
sao các vị tử đạo dám chết? Những người thân của họ được gì?
2.
Có
người nói: “sống tốt cuộc sống này, đã là tử đạo rồi”. Bạn có đồng ý không? Tại
sao?
3.
Để
giúp nhau hiểu thêm về lịch sử Giáo Hội Việt Nam và gương anh dũng của các bậc
cha anh, xin bạn kể tiểu sử một vị thánh tử đạo Việt Nam!
11.
Anh em làm chứng cho Thầy.
(Trích trong
‘Manna’)
Suy Niệm
Trong
số 117 vị Tử Đạo Việt Nam, được phong thánh năm 1988, có một phụ nữ duy nhất,
mẹ của 6 người con. Đó là bà Anê Lê Thị Thành, còn gọi là bà Đê.
Trước
khi là một anh hùng tử đạo, bà đã là một người mẹ hiền gương mẫu. "Thân
mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục các con. Chính người dạy chúng tôi đọc
chữ và học giáo lý, sau lại dạy cách dự thánh lễ và xưng tội rước lễ." Đó
là lời khai của cô con gái út trước giáo quyền.
Nhà
bà Đê là nơi các linh mục trú ẩn. Buổi sáng lễ Phục Sinh năm 1861, quan Tổng
Đốc Nam Định cho quân bao vây làng của bà. Bà Đê bị bắt lúc đã 60 tuổi. Bà bị
đánh đập tra tấn, bị ép phải chối đạo, bị lôi qua Thánh Giá, bị bỏ rắn độc vào
người. Khi con gái đến thăm bà trong nhà giam, đau đớn vì thấy quần áo mẹ loang
đầy vết máu, bà đã an ủi con với một niềm lạc quan lạ lùng: "Con đừng
khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại
khóc?" Sau ba tháng chịu đủ mọi cực hình, người phụ nữ ấy đã hiến đời mình
cho Chúa.
Cuộc
đời của vị thánh nữ tiên khởi của Việt Nam là một sức nâng đỡ lớn cho chúng ta.
Thiên Chúa đã làm điều phi thường nơi một người phụ nữ già nua, yếu đuối. Quan
"Hùm Xám" tỉnh Nam Định cũng phải bó tay trước sự yếu đuối kiên vững
của bà.
Khôn
ngoan và đơn sơ, can đảm chịu đau khổ, bà thánh Đê đã phó mặc cho Chúa đời
mình. Bà chẳng lo phải nói gì, phải làm gì trước tòa án, vì sức mạnh của Thánh
Thần ở với bà.
Hội
Thánh thời nào cũng cần những người dám sống vì đức tin, dám làm chứng cho Chúa
trước mặt người đời.
Sống
đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy sinh mạng sống, nhưng lại
đòi hy sinh cả tương lai vững vàng ổn định.
Mỗi
ngày, chúng ta thường bị đặt trước những chọn lựa, trước thập giá của Đức
Giêsu, y hệt như các vị tử đạo ngày xưa.
Có
khi chúng ta đã bước qua thập giá, khi chọn mình, đã chối Chúa bằng chính cuộc
sống.
Càng
có tự do, ta lại càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là
những thụ tạo gây ra những cuộc bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng
ta cũng phải đối diện.
Ước
gì chúng ta không để mất đức tin được mua bằng giá máu của bao vị tử đạo, và
ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho hơn 70 triệu đồng bào
trên quê hương.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Các
vị tử đạo làm chứng cho Chúa bằng cách hy sinh tính mạng. Theo ý bạn, trong
thời đại đất nước mở cửa, đâu là cách thức làm chứng của người kitô hữu? (làm
chứng ở trường, ở nơi làm việc, ở các chỗ giải trí vui chơi...)
·
Theo
ý bạn, xã hội hôm nay dễ nhạy cảm với cách làm chứng nào của người kitô hữu?
Phải sống như thê nào để người ta dễ có cảm tình với Đức Giêsu?
Cầu Nguyện
Lạy
các thánh tử đạo Việt Nam, các ngài đã dám sống đến cùng ơn gọi Kitô hữu trong
một hoàn cảnh khó khăn nguy hiểm. Sự hy sinh của các ngài cho thấy tình yêu
mạnh hơn sự chết và chết là cửa mở vào cõi sống bất diệt. Dù mang phận người
yếu đuối, nhưng nhờ ơn Chúa đỡ nâng, các ngài đã chiến thắng khải hoàn. Xin cầu
cho chúng con là con cháu các ngài biết can trường sống đức tin của bậc cha anh
trong một thế giới vắng bóng Thiên Chúa, biết nhiệt thành làm chứng về tình yêu
bằng một đời hiến thân phục vụ. Ước gì ngọn lửa đức tin mà các ngài đã thắp lên
bằng cuộc sống và cái chết, được bừng tỏa trên Tổ quốc Việt Nam. Ước gì máu
thắm của các ngài thấm vào mảnh đất quê hương để công cuộc truyền giáo sinh
nhiều hoa trái.
12.
Sống đạo và chết vì đạo
Theo truyện kể, thì thánh Giuse Xuyên
Giám mục địa phận Trung Đàng ngoài, đã được phúc tử vì đạo ngày 28.10.1858,
ngài đã bị xử án lăng trì, nghĩa là bị chặt chân chặt tay và bị cắt thịt ra
từng mảnh. Tương truyền rằng khi thọ án ngài đã có những lời ta thán những kẻ
hành hình ngài là độc ác. Nên vì câu nói ấy mà mãi tới ngày 29.04.1951 ngài mới
được tôn lên bậc chân phước.
Truyền
thuyết trên đây có thể không đúng với sự thật, nhưng dù sao nó cũng nhắc nhở
chúng ta về điều này: Người tử đạo không phải là một anh hùng theo kiểu các anh
hùng khác của nhân loại.
Thật
vậy, các vị tử đạo không phải là những anh hùng ngã gục trên chiến trường với
vũ khí trong tay, trong một cuộc chiến chống lại quân thù. Các ngài là những
con người không biết thù ghét, mà cũng không được thù ghét bất cứ ai, trái lại
luôn luôn tuân giữ mệnh lệnh Chúa Kitô truyền là “Yêu thương kẻ thù và cầu
nguyện cho những kẻ ngược đãi mình”. Nếu các ngài có phải chiến đấu, thì đó là
chiến đấu chống lại sự hèn nhát, khiếp sợ của chính mình.
Vì
thế, nếu có một người nào bị giết, tuy trên danh nghĩa vì đạo, nhưng lại căm
thù những kẻ bách hại mình, hay kiêu hãnh tự phụ vì tính anh hùng của mình, thì
người đó không thể nào là thánh được, mà cùng lắm chỉ có thể được coi như một
anh hùng thôi. Cũng vì lý do đó mà Giáo Hội Công giáo không bao giờ chấp nhận các
tín hữu của mình tự sát, ngay cả trong trường hợp gọi là để bảo vệ đức tin hay
Giáo Hội.
Nói
cách khác, người Kitô hữu được mời gọi trước hết để sống đạo, chứ không phải
chết vì đạo, bởi vì Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chứ không phải là Chúa của
sự chết. Đàng khác, nếu chúng ta sống đạo đúng theo đòi hỏi của Tin Mừng, nghĩa
là sống trọn tình bác ái đối với tất cả mọi người, thì cái chết chúng ta cũng
có ý nghĩa là một cái chết vì đạo. Bởi lẽ chết vì đạo, trước hết phải là chết
vì lòng yêu mến.
Các
thánh Tử Đạo Việt Nam xứng danh là những vị tử đạo theo cả hai nghĩa: Các ngài
đã chết để tỏ lòng trung thành với Chúa, với Giáo Hội, nhưng các ngài cũng chết
cũng chết vì tình yêu mến, yêu Chúa, yêu Giáo Hội, và yêu cả những người bắt bớ
và làm khốn mình. Các ngài đã không thù ghét, không nguyền rủa, mà có khi còn
tỏ lòng biết ơn vì vô tình họ đã trở thành những người Thiên Chúa dùng để ban
phúc tử đạo cho các ngài.
Vua
quan phong kiến có thể coi các ngài như những kẻ phản bội tổ quốc vì theo tả
đạo, nhưng các ngài thực sự là những người yêu nước, yêu đồng bào, nên có vị
tuy ước ao được phúc tử vì đạo, nhưng lại chấp nhận một cuộc sống chui nhủi,
nay trốn chỗ này, mai trốn chỗ khác, đói khát, hiểm nguy không ngại, chỉ muốn
tiếp tục được phục vụ anh em tín hữu của mình. Rồi một khi bị bắt, không một vị
nào đã tìm cách chống cự, hay tỏ vẻ thù nghịch với vua quan lính tráng, trái
lại vui vẻ chấp nhận cái chết như một cách tỏ lòng trung thành với Chúa và tổ
quốc.
Thật
vậy, nếu không vì muốn trung thành với tổ quốc, thì các ngài đã có thể phản đối
hay chống cự, hoặc lên án những kẻ cầm quyền đã bách hại mình, nhưng các ngài
đã cam tâm và bình thản chấp nhận cái chết mà không hề oán hận và hối tiếc.
Trường hợp của thánh Phanxicô Trần văn Trung, cai đội, càng chứng tỏ là người
Kitô hữu này chẳng hề muốn phản bội tổ quốc, vì ngài đã tình nguyện xin đi đánh
giặc, nhưng vua quan từ chối, vì ngài không chịu bỏ đạo.
Noi
gương ông cha mình, người Việt Nam Công giáo chúng ta hôm nay cũng phải gắn bó
đời sống đức tin của mình với những đòi hỏi của đời sống con người trong xã
hội, và trong cộng đồng dân tộc. Chẳng có gì mâu thuẫn giữa đức tin và lòng yêu
nước. Nếu các vua chúa thời trước tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì nhiều vị tử
đạo thay vì phải chết vì đạo, đã có thể sống đạo mà phục vụ tổ quốc và dân tộc
một cách hữu hiệu và tốt đẹp biết bao.
13.
Tử đạo, một chọn lựa của lòng tin
Hôm
nay, chúng ta hân hoan cùng với toàn thể Giáo Hội Việt Nam mừng kính trọng thể
lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam. Đây là một ngày vui mừng chung của tất cả
chúng ta, những kitô hữu mang trong mình dòng máu con Rồng, cháu Tiên. Cách đây
gần 400 năm, hay đúng hơn từ lễ Phục sinh năm 1615, khi cha Bugiơmi, dòng Tên,
người Ý dâng thánh lễ đầu tiên tại Hội An, Đà Nẵng bây giơ, đạo Công giáo đã
được chính thức khai nguyên và lập cơ sở ở Việt Nam. Hạt giống Tin mừng đã được
gieo vãi trên mảnh đất hình chữ “S” thân yêu này. Cha ông chúng ta những con
người có tâm hồn hiền hậu, chất phác đã đón nhận và sẵn sàng dùng chính mạng
sống mình để làm chứng cho Tin mừng đó.
Thật
vậy, “Tử Đạo” theo nguyên ngữ là “Martyr” có nghĩa là “làm chứng”. Vậy thì việc
cha ông chúng ta, từng lớp lớp người sẵn sàng bỏ tất cả vinh hoa, phú quý, vợ
con để chết đi làm chứng điều gì? Chắc chắn việc các ngài sẵn sàng chết không
phải vì các ngài không muốn sống, nhưng là để làm chứng rằng, sự sống nơi trần
thế này không phải là tuyệt đối, và mọi vinh dự ở đời này không phải là vĩnh
cửu. Với cái chết của mình, cha ông chúng ta đã cho thấy rằng: chết chưa phải
là hết, nhưng là cửa ngõ để đi vào một đời sống vĩnh cửu đúng như tâm thức từ
bao đời nay trong lòng người dân Việt: “sống gởi, thác về”. Và chính dòng máu
nóng của các ngài đổ ra trên mảnh đất này, đã làm phát sinh một Giáo Hội Việt
Nam hôm nay, như lời Đức Kitô: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi,
thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt
khác”.
1. Chọn lựa của dân Do thái:
Tuy
nhiên, để có thể sẵn sàng đổ máu để làm chứng cho Tin mừng, cha ông chúng ta đã
phải làm một cuộc chọn lựa thật quyết liệt trong tâm hồn. Bởi vì, trong thực
tế, hạnh phúc đời sau thì bây giờ chúng ta không thấy, còn tiền của, danh vọng
cùng với những vinh hoa phú quý của nó, thì lại nằm ngay trước mắt. Chính dân
Do Thái khi bước vào được Đất Hứa, sau cuộc hành trình 40 năm trong sa mạc,
cũng đã phải làm một cuộc chọn lựa cơ bản này. Ông Môisê đã nói với họ: “Coi
đây, hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc,
hoặc là bị chết, bị tai hoạ”. Khi dân Do thái chọn lựa “yêu mến Đức Chúa,… và
gắn bó với Người”, thì không phải vì trước mắt họ nhận được một cuộc sống sung
sướng, dễ dãi. Họ chọn lựa Thiên Chúa chỉ vì họ tin tưởng vào tình yêu của
Giavê Thiên Chúa, Đấng đã từng giải thoát họ thoát ách nô lệ Ai Cập, kết ước
với họ, để họ được làm dân của Ngài. Đồng thời, còn ban cho họ Đất Hứa làm gia
nghiệp.
2. Chọn lựa của cha ông chúng ta:
“Trung
thành với Thiên Chúa” cũng chính là chọn lựa, mà cha ông chúng ta ngay từ những
ngày đầu đón nhận Tin mừng đã quyết định. Một cuộc chọn lựa nhìn bên ngoài có
vẻ đơn giản: đó là bước qua thập giá hay không bước qua. Bước qua thì có ngay
tiền bạc, vinh hoa phú quý, còn như không bước qua thì có thể lập tức lãnh lấy
cái chết. Đứng trước thập giá, đã có người bước qua, nhưng cũng đã có nhiều
người không bước qua, không quá khoá. Đã có người được khiêng qua thánh giá,
nhưng đã co chân lên như thánh Antôn Nguyễn Đích. Đã có người bước qua thánh
giá, nhưng sau lại hối hận: đó là trường hợp của ba vị thánh Augustin Phan Viết
Huy, Nicôla Bùi Đức Thể, và Đaminh Đinh Đạt. Vua quan đã bày ra trước mặt các
ông mười nén vàng, một tượng Chịu Nạn và một thanh gươm rồi nói: “Cho bay tự ý
chọn, bước qua tượng thì được vàng, bằng không thì gươm sẽ chặt đôi người bay
ra, xác sẽ bị bỏ trôi ngoài biển.” Đúng đây là một chọn lựa nghiêm chỉnh, chọn
lựa này đụng đến tương lai và sinh mạng của chính mình. Chọn lựa này bày tỏ
thái độ của bản thân tôi đối với Đức Giêsu. Tôi chọn Ngài hay tôi chọn tôi.
Thánh Anrê Kim Thông nói với quan tỉnh: “Thánh giá tôi kính thờ, tôi giẫm lên
sao được”. Còn Thánh Têphanô Ven, một linh mục trẻ, chỉ mới 31 tuổi, thuộc Hội
Thừa Sai Paris đã bày tỏ chọn lựa của mình một cách thật dứt khoát, khi trả lời
cho viên quan bảo ngài bước qua Thánh giá: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo
thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời
này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Một chọn lựa có thể nói là đầy
bấp bênh theo cái nhìn tự nhiên của con người. Chính vì bấp bênh như thế mà
những chọn lựa này trở nên có giá trị, vì nó đúng là một chọn lựa của lòng tin.
Vâng,
mỗi người chúng ta chỉ nhờ có lòng tin chứ không phải nhờ bất cứ điều gì khác,
mới có thể giúp mỗi người chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ. Ý thức điều đó, thánh
Phaolô mời gọi tín hữu thành Côlôsê và cũng là lời nhắc nhở từng người chúng
ta: “Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc kiên quyết,
và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan
báo Tin mừng”. Đức tin này mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận khi chịu phép Rửa,
nhưng như thế thì chưa đủ. Đức tin đó còn phải được minh chứng bằng chính cuộc
sống hàng ngày của mỗi người chúng ta. Nhiều vị tử đạo đã được mời giả vờ bước
qua thánh giá, để quan có cớ mà tha, còn đức tin bên trong thì quan không đụng
đến.
Đây
là một cám dỗ khá tinh vi và hấp dẫn, có vẻ như được cả hai, đời này và đời
sau. Nhưng liệu tôi có thể bên ngoài chà đạp một Đấng mà bên trong tôi tôn thờ
không? Đứng trước thánh giá là đứng trước một chọn lựa dứt khoát, không có giải
pháp dung hoà hay lập lờ. Không ai có thể làm tôi hai chủ (x. Mt 6, 24), điều
này vẫn đúng cho những chọn lựa mỗi ngày của các Kitô hữu chúng ta qua mọi thời
đại.
3. Chọn lựa của chúng ta hôm nay:
Mừng
lễ các thánh Tử Đạo tại Việt Nam hôm nay, lời Chúa một lần nữa mời gọi mỗi người
chúng ta xét lại chọn lựa của mình. Chọn lựa này không phải chỉ một lần là
xong, nhưng cần đựơc lập lại mỗi ngày. Tôi đang chọn Chúa hay tôi chọn tôi? Và
nếu tôi chọn Chúa, tôi đã làm gì để chứng minh cho lựa chọn của mình? Chọn lựa
của chúng ta hôm nay, có thể không đòi chúng ta phải đổ máu để làm chứng cho
Chúa, nhưng tôi thiết nghĩ, cũng không kém phần gian khó. Đứng trước những bất
công, tôi có dám bênh vực, hay tôi sợ phiền hà rồi im lặng? Trước một trận bóng
đá, một bộ phim hay, một giấc ngủ ngon, một lời rủ đi chơi của bạn bè và tiếng
mời gọi của Chúa nơi ngôi Thánh đường này, tôi chọn điều gì?
Chớ
gì, nhờ lời cầu bầu của các thánh Tử Đạo tại Việt Nam và nhất là sức mạnh của
Thánh Thể, quý ông bà anh chị em và tôi đủ sức thực hiện những chọn lựa của
mình. Nhờ đó, vào ngày sau hết, tất cả chúng ta sẽ cùng được đoàn tụ với cha
ông chúng ta như lời hứa của Đức Giêsu: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và
Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó”. Amen.
14.
Các thánh Tử Đạo Việt Nam
Lễ
kính các thánh tử đạo là sự tuyên dương những con người đã dám chết.
Tại
sao tuyên dương? Thưa vì người ta thường nghĩ “Không có gì quí hơn mạng sống”.
Khi mạng sống bị đe dọa thì bằng bất cứ giá nào, người ta cũng tìm cách để
thoát khỏi cái chết và bảo tồn mạng sống của mình. Thí dụ có người khi đói quá
đã kiếm cỏ, kiếm vỏ cây để ăn, những thứ mà bình thường không bao giờ họ ăn; có
người bình thường rất tự trọng nhưng khi quá đói đã phải ăn cắp thức ăn của
người khác, đã dành ăn với người khác; thậm chí có người còn dám ăn thịt người
trong lúc không còn gì ăn để giữ mạng sống. Thực ra những việc làm trên không
có gì lạ, vì người ta đã làm theo bản năng, gọi là bản năng sinh tồn.
Tuy
nhiên có những người đã không theo bản năng sinh tồn ấy. Những người này không
nghĩ rằng mạng sống là giá trị cao quí nhất, mà còn có những giá trị không cao
hơn nhiều. Thí dụ:
-
Trong
trận động đất ở nước Nga, một người mẹ bị kẹt trong đống gạch vụn cùng với đứa
con của mình. Vì không có gì để ăn, hai mẹ con dần dần yếu. Người mẹ nghĩ rằng
nếu tình hình cứ tiếp tục thì sau cùng cả hai mẹ con đều chết, bởi đó bà đã cắn
đầu ngón tay mình, lấy máu cho con uống. Bà dám chết để con bà được sống.
-
Hay
như các anh hùng liệt sĩ, những người đã can đảm hy sinh mạng sống mình để bảo
vệ tổ quốc quê hương. Họ đã coi quê hương đất nước trọng hơn mạng sống bản
thân.
-
Và
các vị thánh Tử Đạo cũng vậy, các ngài coi đức tin trọng hơn mạng sống thể xác.
Tất
cả những người vừa kể trên đều đã dám chết, tất cả đều đáng ta kính phục. Riêng
các thánh Tử Đạo Việt Nam, chúng ta thấy kính phục đặc biệt vì các ngài có thể
thoát chết cách dễ dàng thế mà các ngài vẫn can đảm chết: chỉ cần nói với quan
một câu là “Tôi chịu bỏ đạo” thì lập tức được thả tự do, hay đơn giản hơn chỉ
cần thưa “vâng” khi quan hỏi “có chịu bỏ đạo không?”, hay đơn giản hơn nữa,
không cần nói một lời nào cả, chỉ một cái gật đầu hay chỉ để yên cho người ta
khiêng mình ngang qua cây thập giá thôi. Thế nhưng các ngài đã không làm như
vậy, các ngài dám chịu chết. Cái chết của các ngài gợi lên cho chúng ta nhiều
điều suy nghĩ:
Điều thứ nhất cái chết ấy nói lên một quan niệm
sống: sống không phải chỉ là tồn tại, tồn tại bằng bất cứ giá nào. Nhưng sống
còn là sống theo một lý tưởng. Người không sống theo một lý tưởng thì chỉ sống
như một sinh vật, chỉ lo ăn lo uống, lo sinh tồn. Còn người có lý tưởng và quí
chuộng lý tưởng của mình thì không làm những gì nghịch với lý tưởng ấy; nếu bị
buộc làm điều nghịch với lý tưởng, hay bị cấm cản không cho sống theo lý tưởng
thì các ngài thà chết để trung thành với lý tưởng cao đẹp của mình.
Một
trong những điều tệ hại hiện nay là nhiều người không còn lý tưởng sống, nhất
là các thanh niên ở các nước giàu bên Âu Mỹ, cả đời họ không biết tìm gì khác
hơn là kiếm tiền, rồi ăn nhậu, rồi mua sắm, rồi vui chơi. Nhưng cũng như người
ta không thể ăn hoài được, khi đã no thì không thể ăn thêm nữa, các thanh niên
ấy ăn uống mãi rồi cũng chán, vui chơi mãi rồi cũng nhàm, thế là họ nghĩ ra
những cách hưởng thụ khác như xì ke ma túy, nghĩ đến những hình thức tình dục
khác thường… kết quả là bị mắc bệnh Aids. Có lẽ không bao lâu nữa cách sống đó
cũng du nhập vào xã hội chúng ta, bởi vậy nhắc lại gương sống của các thánh Tử
Đạo là một điều hữu ích: sống không phải chỉ là tồn tại và hưởng thụ, mà còn
phải là sống theo một lý tưởng cao đẹp.
Điều thứ hai chúng ta kính phục nơi các thánh Tử
Đạo là sự trung thực của các ngài: Trung thực là sống đúng theo điều mình tin
và nói. Các thánh tử đạo tin rằng và nói rằng có Thiên Chúa, có linh hồn, có
đời sau. Vậy khi các ngài dám chết là các ngài đã tỏ ra trung thực với niềm tin
ấy, cái chết của các ngài cho người ta thấy rõ là các ngài thực sự tin rằng sau
khi chết các ngài sẽ gặp được Chúa, linh hồn các ngài vẫn còn sống trong cõi
vinh quang hạnh phúc với Chúa. Thực tế ngày nay, nhiều người không còn trung
thực nữa: họ nói rất hay nhưng họ không làm theo điều họ nói, có khi họ cũng
muốn làm nhưng lại không dám làm vì sợ bị thiệt thòi…
Và
điều thứ ba khiến chúng ta kính phục
các thánh tử đạo là các ngài đã mở trí cho chúng ta hiểu rằng đời này không phải
là tất cả. Năm 1980 tại câu lạc bộ những nhân vật vị vọng trong xã hội, câu lạc
bộ Philadelphia Phillies, người ta đã tổ chức một buổi nói chuyện và người được
mời nói chuyện một nhân vật đặc biệt tên là Cordell. Cordell có tật nơi chân
nên đi đứng rất khó khăn. Anh lại ngọng nên nói năng cũng khó. Mặt mày anh dị
hợm nên nhiều người thấy anh phải quay mặt đi hướng khác. Một người như thế có
gì để nói với những nhân vật giàu sang danh vọng trong xã hội? Anh mở đầu như
sau: “Tôi biết rằng tôi rất là khác biệt với các bạn”, rồi anh kể về cuộc đời
mình, một cuộc đời nhiều thất bại, nhiều đau khổ. Sau cùng anh kết luận “Các
bạn có thể thành công suốt cả cuộc đời và lãnh hàng triệu đôla mỗi năm. Nhưng
khi ngày giờ đến, ngày mà người ta đóng nắp quan tài của bạn lại, thì các bạn
sẽ chẳng khác tôi chút nào. Đó là lúc chúng ta đều y như nhau”. Không biết cử
tọa của cuộc nói chuyện hôm đó nghĩ gì, nhưng tôi thì nghĩ đến các thánh tử
đạo: các ngài khôn hơn nhiều người ở chỗ nhiều người đã dùng cả cuộc đời để
kiếm tìm những điều họ sẽ phải bỏ lại hết khi quan tài của họ bị đóng lại, còn
các ngài thì dám bỏ tất cả những gì quí nhất ở trần gian để đổi lấy cuộc sống
vĩnh cửu.
15.
Người chứng thứ nhất – Ga 12,24-26
(Trích trong
‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử
hình mà không được nói một lời để bào chữa mình. Người tuyên án là quan trấn
tỉnh Phú Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị quan này từ triều đình nhà vua về, đem
theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông già tên rửa tội là Anrê, rồi sai
một toán lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc để bắt thầy giảng số một là Inbaxu.
Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ gặp người thanh niên Phú Yên
là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba năm và đã từng cho đi theo để giúp
dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho
thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên
vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường không ngừng giảng cho những kẻ
dẫn mình vào ngục biết đường tránh hỏa ngục hầu hưởng phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và một
số thương gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê Phú Yên
thì không. Người thanh niên cường tráng này dám cương quyết thà chết chẳng thà
bỏ đạo nên sẽ phải chết để nêu gương cho mọi người biết vâng lệnh nhà vua. Vậy
lính dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách thành phố chừng nửa dặm. Mặc dầu đeo
gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc Lộ theo không kịp. Tới nơi hành
quyết, thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để chiến đấu cho can đảm hơn. Lính
gác chung quanh không cho ai vào phía trong cả, nhưng viên đội trưởng cho phép
cha Đắc Lộ được đứng cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê nhìn trời cao, miệng
luôn hé mở và kêu danh thánh Giêsu.
Một người lính lấy giáo đâm thầy từ
phía lưng, thâu qua ngực chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để
vĩnh biệt và cha khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa Giêsu đón
vào cõi phúc. Từ giây phút đó thầy chăm chút nhìn lên và không còn nhìn xuống
nữa. Người lính rút lưỡi giáo ra đâm phát thứ hai, rồi đến phát thứ ba, hắn cố
ý đâm trúng tim anh nhưng vẫn chưa chết. Thấy thế, một người lính khác lấy mã
tấu chặt vào cổ anh, anh vẫn chưa xong, phải thêm một nhát thứ hai đầu anh mới
lìa khỏi cổ, máu chảy tràn lai làng. Hành quyết xong, toán lính kéo nhau ra bờ
sông để rửa các vết máu. Cha Đắc Lộ nhặt đầu anh gói lại kỹ càng như một báu
vật, còn xác anh ngài tẩm liệm gởi xuống tàu buôn đưa về Macao chôn cất. Ngài
biết đây là một thánh nhân, cần tôn trọng thi thể này để ngàn đời lưu danh.
(theo “Người chứng thứ nhất” của Phạm Đình Khiêm).
Anh
chị em thân mến,
Mỗi
lần nói đến các Thánh Tử Đạo là chúng ta nghĩ ngay đến cảnh ngục tù, gông cùm,
gươm giáo, đầu rơi, máu đổ. Thế nhưng, ở thời đại đang tiến dần vào thế kỷ 21,
những cảnh hành hình tàn bạo, dã man, cổ điển ngày xưa và việc bắt đạo của các
chính quyền hầu như không thể tái diễn. Vì hiến pháp của bất cứ quốc gia nào
cũng tôn trọng tự do tín ngưỡng và các quyền cơ bản của con người. Đàng khác,
các án tử hình cũng dần dần được loại bỏ trong các bộ luật hình sự của các nước
trên thế giới.
Ngày
nay, khái niệm về tử đạo hiểu rộng rãi hơn. Người tử đạo là người dám chết cho
công lý, cho hòa bình, chết cho quyền sống của con người, nhất là những người
nghèo khổ, bị áp bức. Nói chung là chết vì Chính Đạo, chết vì muốn sống theo
con đường Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Trong
Tông Thư “Tiến đến thiên niên kỷ thứ ba”, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II kêu gọi
Giáo Hội địa phương lập danh mục các vị tử đạo mới của thế kỷ này. Vì “trong
thế kỷ này lại có những người tử đạo, - thường là âm thầm, họ như thể là “những
chiến sĩ vô danh” – vì đại cuộc của Thiên Chúa. Giáo Hội không chỉ có những
người đổ máu vì Đức Kitô mà còn có những bậc thầy về đức tin, những nhà truyền
giáo, những người tuyên xưng đức tin, những giám mục, linh mục, các trinh nữ,
những người kết hôn, góa bụa và trẻ em” (số 37).
Tại
đất nước chúng ta, giai đoạn lịch sử của 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam được ghi
nhận kéo dài đúng 117 năm, với hai vị tử đạo tiên khởi là Thánh Phanxicô
Frederic Tế và Matthêu Liciana Dậu, hai linh mục dòng Đa Minh, cùng chịu tử đạo
tại Thăng Long, miền Bắc năm 1745. Nhưng trước đó hơn một thế kỷ, đã có máu đào
đổ ra để làm chứng cho Chúa Kitô, như thấy nơi cái chết của Thầy giảng Anrê Phú
Yên năm 1644 tại miền Trung. Vị Tử đạo cuối cùng trong số 117 là Thánh Phêrô
Đa, giáo dân thợ mộc, vừa bị thiêu đốt vừa bị chém đầu ngày 17 tháng 6 năm 1862
tại Qua Linh, miền Bắc. Cuối năm 1861 đầu năm 1862, cuộc cấm đạo trước khi chấm
dứt còn bùng lên dữ dội ở miền Nam. Chỉ ở hai nơi là Biên Hòa và Bà Rịa, 846
Kitô hữu đã bị thiêu sống. Vậy trong ngày lễ kính các Thánh Tử Đạo Việt Nam hôm
nay, chúng ta không những kính 117 vị đã được tôn phong hiển thánh nhưng còn tỏ
lòng biết ơn hàng trăm người đã hy sinh tính mạng vì Chúa Kitô và đã có công
truyền lại đức tin cho chúng ta là con cháu.
Nhưng
trước hết và trên hết, chúng ta cần tỏ lòng biết ơn Đấng là hiện thân của tình
yêu Thiên Chúa đến với loài ngừoi chúng ta. Thiên Chúa đã yêu loài người đến
nỗi đã ban Con Một Người và Người Con Một ấy trước khi chết vì chúng ta đã quỳ
xuống rửa chân cho từng môn đệ. Kế đến Ngài đã dành những lời tâm huyết để nhắn
nhủ các môn đệ. Ngài ví bản thân Ngài như hạt lúa mì gieo vào lòng đất, phải
chết đi để sinh được nhiều bông hạt lúa mới (x.Ga 12,24). Rồi Ngài dặn dò các
môn đệ về cái thế giới chẳng mấy thân thiện đối với cả thầy lẫn trò: Họ ghét
anh em vì họ đã ghét Thầy trước. Chính tình yêu đến hy sinh mạng sống như Chúa
Giêsu là cái giá phải trả để trở nên môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Cái giá
ấy các môn đệ xưa đã trả bằng cách hy sinh mạng sống mình. Cái giá ấy các Thánh
Tử Đạo cũng đã trả để mang lại nhiều hoa trái là nhiều người nhận biết Chúa
Kitô để được ơn cứu độ. Đúng như lời vị Giáo Phụ Tertulianô đã nói: “Máu các vị
Tử Đạo chính là hạt giống phát sinh các Kitô hữu”.
Thưa
anh chị em,
Hội
Thánh thời nào cũng cần những người dám sống đức tin, dám làm chứng cho Chúa
trước mặt người đời. Sống đức tin là một loại tử đạo không đổ máu, không đòi hy
sinh mạng sống. Mỗi ngày chúng ta thường vị đặt trước những chọn lựa, trước
thập giá của Chúa Giêsu y hệt như các vị Tử Đạo ngày xưa. Càng có tự do, chúng
ta càng dễ sa sút đức tin. Tiền bạc, tiện nghi, khoái lạc vẫn là những tạo vật
gây ra những bách hại êm ả và khủng khiếp mà cuối cùng chúng ta cũng phải đối
diện. Ước gì chúng ta không để mất đức tin đã được mua bằng giá máu của bao vị
Tử Đạo, và ước gì chúng ta không ngừng chuyển giao đức tin ấy cho anh em đồng
bào trên quê hương Việt Nam chúng ta.
16.
Chứng nhân.
Vào hồi 9 giờ sáng ngày 19 – 6 – 1988 tại
Rôma, tức là lúc 15 giờ cùng ngày tại Việt Nam, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
đã long trọng tôn phong 117 vị chân phước tử đạo tại Việt Nam lên hàng hiển
thánh, gồm 96 người Việt Nam và 21 vị thừa sai ngoại quốc. Dĩ nhiên đây chỉ là
con số tiêu biểu cho hơn 100.000 vị tử đạo trong gần 300 năm bị bách hại. 300
năm bị bách hại với hơn 100.000 người tử đạo đủ cho mọi người thấy sự ác liệt
thảm khốc cũng như sức chịu đựng bền bỉ kiên cường và lòng trung thành đối với
đức tin mà cha ông chúng ta đã lãnh nhận và tôn thờ. Các ngài cảm thấy hạnh
phúc vì được thuộc về Chúa, các ngài hãnh diện vì là người Công giáo, các ngài
can đảm tuyên xưng danh Chúa và cương quyết giữ vững lập trường đức tin chân
chính của mình.
Trong
số hơn một trăm ngàn ấy, có một số rất ít là giám mục, linh mục thừa sai nước
ngoài, một số đông hơn là linh mục và tu sĩ nam nữ Việt Nam, nhưng đại đa số là
giáo dân: những ông trùm họ, ông câu, ông chánh trương, bà quản, những binh
lính và hàng ngàn thanh niên nam nữ và các trẻ em. Tất cả đã chịu tử hình cá
nhân hay tập thể, sau khi đã chịu nhiều cực hình khác nhau.
Nói
chung, các vị tử đạo đã bằng lòng chấp nhận chịu thử thách đau thương, không
kêu ca, không oán hận những người làm khổ mình như một con sò chịu cho người ta
cắt thân ra, đặt vào một hạt cát, để rồi sau một thời gian sẽ có một viên ngọc
đắt giá. Nếu như con sò kia nhả hạt cát ra thì sẽ không bao giờ có được một
viên ngọc sáng giá. Các vị tử đạo cũng vậy, các ngài ấp ủ, bọc kín đau khổ
trong đời mình, vì biết rằng qua đó Giáo hội sẽ được lời lãi gấp bội. Các ngài
luôn vui tươi trong mọi cảnh huống cuộc đời. Thật là khó hiểu đối với những
người không có đức tin. Vui tươi trước những may lành, thành công thì ai cũng
làm được, hãnh diện trong vinh quang giàu sang, sung sướng là bình thường,
nhưng vui tươi trong gian nan, thử thách, đau khổ, chết chóc là một điều hết
sức kỳ khôi, lạ lùng, khác thường, nhưng rất hợp tình hợp lý, vì nước trời ghi
công, vì sẽ được hạnh phúc muôn đời, đó là phần thưởng vô giá mà không có gì ở
trần gian có thể so sánh được. Tử đạo là như thế.
Nói
rõ hơn, trong các tôn giáo khác cũng có những người đã can đảm nhận lấy cái
chết do sự nhiệt cuồng mạnh mẽ nhưng nhất thời, còn các vị tử đạo Công giáo
không phải là những người nhiệt cuồng. Trong một thời gian lâu dài trước, các
ngài đã biết hễ ai theo đạo Công giáo là sẽ bị chết, các ngài luôn sống với ý
tưởng: không sớm thì muộn mình sẽ phải chịu đau khổ và phải chết cho đức tin,
sống như vậy thì đau khổ hơn chết. Mặc dù vậy các ngài vẫn nhẫn nại trung thành
với những bổn phận hằng ngày, vẫn bình thản sống trong sự tinh tấn của lương
tâm và đợi chết hằng ngày. Thái độ đó khác hẳn với thái độ nhiệt cuồng của
những người cuồng tin, lúc đầu mặc dầu các ngài cũng tìm hết cách để tránh khỏi
bị hại, nhưng khi giờ tử đạo đến, các ngài biết chết một cách bình tĩnh cũng
như các ngài đã sống bình tĩnh. Chết cách ấy quả là một việc anh hùng và phải
có một sức mạnh siêu nhiên nào đó, đúng, đó là bàn tay vô hình của Thiên Chúa
nâng đỡ.
Như
vậy, tử đạo là lấy máu mình, lấy mạng sống mình, dùng cái chết của mình để minh
chứng cho đạo mình tin theo, minh chứng đạo Công giáo đạo của Chúa. Các vị tử
đạo đã chết bằng những hình khổ khác nhau, nhưng tất cả các ngài đều là những
nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Cái chết của các ngài là một câu trả
lời hùng hồn quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các ngài. Vì
thế, danh từ “tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng và dùng đau khổ tử hình để bảo
đảm cho lời chứng. Pascan tiên sinh đã nói: “Tôi sẵn sàng tin những truyện mà
người thuật lại giơ cổ ra cho người khác chém để làm chứng”.
Mừng
kính trọng thể các thánh tử đạo, chúng ta nói lên lòng biết ơn sâu xa của chúng
ta là những người ăn quả nhớ kẻ trồng cây, uống nước nhớ nguồn. Các ngài là cho
ông tổ tiên của chúng ta, các ngài đã chết, nhưng công nghiệp của các ngài vẫn
còn mãi. Cho nên, nhiệm vụ của chúng ta là ghi ơn, thừa hưởng và phát huy
truyền thống cha ông ngàn đời vô giá. Truyền thống đó là: đức tin sắt đá, tinh
thần đạo đức, chí hy sinh và gương anh dũng. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ: tử
đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn, nhưng nỗ lực làm
chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả, là Kitô hữu là có nhiệm vụ làm
chứng: bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc đời của mình.
Chúng
ta đều biết cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là sống bác ái, yêu
thương, đây là cách tốt nhất để sống đạo và truyền đạo. Chung quanh chúng ta,
những đồng bào không Công giáo cũng quan tâm rất nhiều đến bác ái yêu thương
đối với nhau và đối với những người khác: những việc làm xóa đói giảm nghèo,
những ngôi nhà tình nghĩa, những lớp học tình thương, những chia sẻ cho những
anh em bị bão lụt, thiên tai, những người bệnh tật… chúng ta có quan tâm đến
những việc đó hay những việc tương tự khác không? Chúng ta cũng nên tự hỏi:
cách sống đạo của chúng ta có thực sự tuyên xưng Chúa, tuyên xưng đức tin
không? Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo, những người không
hiểu về chính nghĩa của đạo bằng việc sống trọn vẹn, quyết liệt, dứt khoát tinh
thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những người chung quanh.
Xin
Chúa Thánh Thần là tình yêu Thiên Chúa ban ơn thêm sức cho chúng ta, đặc biệt
là ban ơn bác ái yêu thương để chúng ta thêm tình mến Chúa yêu người một cách
đơn sơ trung thành, một cách bền vững và một cách quảng đại. Chúng ta hãy nhớ:
chỉ có tình yêu thương là cách sống đạo tốt nhất và làm chứng cho Chúa, cho đạo
hữu hiệu nhất.
17.
Tử đạo
Trước
khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã tiên báo cho các môn đệ: “Người ta sẽ ghét
bỏ các con, sẽ bắt bớ và xua đuổi các con ra khỏi nhà hội. Sẽ đánh đập và nhốt
các con vào ngục tù, và sau cùng họ giết các con vì môn đệ không trọng hơn thày…”
Lời
tiên báo của Chúa Giêsu đã được thực hiện, trải qua dòng thời gian, hằng triệu
các tín hữu đã đi vào dấu chân của các tông đồ, chấp nhận hy sinh mạng sống để
làm chứng cho Tin Mừng Phúc âm. Có thể nói được rằng Kitô giáo đã lớn lên trong
máu và nước mắt. Ở mọi nơi và trong mọi lúc, Giáo hội đều gặp phải những bắt bớ
và cấm cách, từ những thế kỷ đầu khi Giáo hội còn phôi thai, cho đến tận ngày
hôm nay khi Giáo hội đã có mặt ở tận cùng bờ cõi trái đất.
Nào
là những cuộc bách hại đẫm máu ở Đại Hàn, Nhật Bản, Phi Châu và ngay cả trên
đất nước Việt Nam thân yêu, suốt ba thế kỷ, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, biết bao
nhiêu bắt bớ cũng đã xảy ra. Thực vậy, Tin mừng được chính thức loan truyền
trên quê hương Việt Nam vào thời Hậu Lê thuộc thế kỷ 16. Thế nhưng, ngày từ lúc
còn phôi thai Giáo hội Việt Nam đã gặp phải những cấm cách đúng như lời Chúa đã
phán: Nếu họ đã bắt bớ Thày, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con. Cuộc bách hại khởi
đầu từ thời Hậu Lê, qua nhà Tây sơn, rồi tới triều Nguyễn và đặc biệt trở nên
gắt gao dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Suốt ba trăm năm, biết bao
nhiêu người đã phải rời bỏ làng mạc thân yêu trốn chạy vào những nơi rừng
thiêng nước độc, cốt bảo toàn đức tin của mình. Hơn 130 ngàn người đã ngã gục
dưới những cực hình dã man, để trờ thành những chứng nhân bất khuất cho Đức
Kitô. Trong đó 117 vị đã vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh, gồn 8 giám
mục, 50 linh mục, 16 thày giảng, 1 chủng sinh và 42 giáo dân.
Thế
gian thù ghét Chúa Giêsu và Giáo hội, Sự thù ghét ấy vẫn còn đó, cho dù con
người hôm nay đã bước vào thời đại văn minh và tiến bộ. Thực vậy, Ngày hôm nay
trên thế giới vẫn còn có biết bao nhiêu Giám mục, Linh mục và giáo dân bị tù
tội, bị áp bức chỉ vì một lý do duy nhất đó là đã tin theo Đức Kitô.
Thế
nhưng như người ta vẫn thường bảo:
- Cái đe làm
cho chiếc búa bị hỏng.
Thế
gian nhục mạ, bắt bớ Giáo hội và rồi họ đã chết, còn Giáo hội thì vẫn đứng
vững, vẫn giữ được vẻ tươi trẻ và sức sống của mình. Chúng ta thử nhớ lại ảnh
hưởng to lớn mà Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã tạo được trên thế giới và cái chết
của ngài đã gây ra một sự mất mát đớn đau. Rồi những tình cảm nồng hậu người ta
đã dành cho Đức Phaolô VI, cũng như Đức Gioan-Phaolô II trong những chuyến công
du.
Từ
đó chúng ta nhận thấy gian nguy và thử thách là một cái gì gắn liền với thân
phận của Giáo hội, hay nói cách khác, là một phần của đời sống Giáo hội, bởi vì
không một vị thánh nào mà không bị khổ đau, mà không bị đổ máu.
Thế
nhưng chấp nhận cái chết trong phút chốc có thể là một việc dễ dàng. Nhưng từng
giây từng phút, từ bỏ những ước muốn riêng tư để làm vui lòng Chúa, chu toàn
mọi bổn phận nhỏ bé không tên, tha thứ mọi lỗi lầm, mọi vấp phạm, mọi va chạm,
đó có thể là một việc khó, đòi phải có một đức tính kiên nhẫn và một lòng mến
chân thành. Việc làm đó không hào quang, không rực rỡ, không một ai biết đến
trừ ra chính Thiên Chúa.
Đôi
lúc đau khổ và thử thách còn là một phần của đời sống người Kitô hữu: Nào cám
dỗ, nào bệnh tật, nào khó khăn, nào chết chóc. Dĩ nhiên chúng ta phải làm việc,
để tạo dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc và tiện nghi. Thế nhưng chúng ta phải
nhớ rằng: Sống đạo và chạy theo vui thú là hai việc làm không thể đội trời
chung với nhau. Bởi vì đời sống người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu không
ngừng chống lại sự bành trướng của tinh thần thế gian. Hay như lời thánh Phaolô
đã nói:
-
Những
người thuộc về Đức Kitô thì đóng đinh xác thịt mình cùng với mọi đam mê dục
vọng vào thập giá.
Chính
những đau khổ và thử thách sẽ giúp chúng ta vượt lên trên tinh thần thế tục,
thanh tẩy chúng ta và đền bù tội lỗi chúng ta.
Bởi
đó đừng nguyền rủa phẫn uất nhưng hãy biết đón nhận vì lòng yêu mến Chúa, để
góp phần vào thập giá của Ngài. Trong những giờ phút đen tối, hãy ngước nhìn
thập giá và sẽ tìm được niềm an ủi và khích lệ vì chính Chúa cũng đã đau khổ
trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.
Cuộc
đời thì ngắn ngủi, đừng lãng phí và làm cho nó bị hư đi, vì sau cơn mưa trời
lại sáng, sau thập giá là vinh quang phục sinh.
18.
Làm chứng
Hôm
nay Giáo Hội cho phép chúng ta mừng kính chung toàn thể các Thánh Tử Đạo Việt
Nam. Đây thực là một ngày giỗ tổ làm cho mọi tâm hồn con dân đất Việt phấn khởi
vui mừng. Chúng ta đều biết từ khi đạo Chúa chính thức bắt rễ vào đất nước
chúng ta cho đến cuối thế kỷ XIX, nghĩa là từ khoảng năm 1638 đến năm 1886, gần
300 năm, lịch sử Giáo Hội Việt Nam là cả một cuộc tử đạo kéo dài gần như liên
tục năm này qua năm khác, không mấy khi ngừng, mà nếu có ngừng thì chỉ tạm
ngừng để chuẩn bị tiến sang một giai đoạn chịu bách hại khác dữ dội hơn và đẫm
máu hơn.
Trong
suốt ba thế kỷ bị bách hại, tính ra có trên 130 ngàn anh hùng tử đạo, và như
thế nước Việt Nam chúng ta, tuy nhỏ hẹp và nghèo khổ nhưng rất hào hùng. Nước
nhỏ hẹp nhưng danh tiếng vang lừng quốc tế. Chúng ta đã đóng góp cho gia sản
của Giáo Hội một sự nghiệp đức tin to lớn. Tuy nhiên, trong số đó mới chỉ có
117 vị được phong chân phước. Và ngày 19.06.1988, cả 117 vị này đã được Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II suy tôn lên bậc hiển thánh. Các ngài được suy tôn
hiển thánh để cho toàn thể thế giới tôn kính và noi gương anh dũng của các
ngài. Đồng thời để cho chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, là con cháu
các ngài, biết nối gót cha ông, dù sống trong hoàn cảnh nào cũng luôn trung
thành với Chúa, với Giáo Hội, với Tin Mừng giữa lòng dân tộc.
Các
vị tử đạo cũng là những con người mang thân xác giòn mỏng như chúng ta, cũng
biết rung cảm, cũng biết ham sống sợ chết như chúng ta. Nhưng giờ phút hy sinh
đến, các ngài sẵn sàng tiến lên dâng hiến cuộc đời cho Thiên Chúa. Do đó cái
chết của các ngài có một ý hướng nhất định: các ngài là những nhân chứng cho
đạo Chúa. Đúng thế, danh từ “Tử đạo” có nghĩa là kẻ làm chứng, và dùng đau khổ,
tử hình để bảo đảm cho lời chứng. Mỗi vị tử đạo chết bằng nhiều hình khổ khác
nhau, nhưng tất cả các ngài đều hiên ngang dùng lời nói và mạng sống mình để
giảng đạo, bênh vực chân lý và tuyên xưng đức tin. Tóm lại, tất cả các ngài đều
là những nhân chứng bằng chính đời sống của mình. Và cái chết của các ngài là
một câu trả lời hùng hồn, quyết liệt cho những ai còn nghi ngờ tôn giáo của các
ngài.
Người
ta thường nói: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay “Uống nước nhớ nguồn”. Chúng ta là
con cháu các vị tử đạo, chúng ta được thừa hưởng một di sản đức tin phong phú,
được chiêm ngưỡng một Giáo Hội phát triển tốt đẹp như ngày nay, chúng ta không
thể quên đó là kết quả của những dòng máu cha ông đã đổ ra. Bởi vậy, chúng ta
phải tưởng niệm đến công lao to lớn của tiền nhân mà đáp đền cho xứng đáng và
ra công phát huy di sản quí báu cha ông đã để lại. Nhưng nếu chỉ có những cảm
tình hân hoan phấn khởi và biết ơn mà thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải chú ý
lắng nghe tiếng gọi tha thiết của dòng máu tử đạo và khám phá ra những bài học
cao quí để áp dụng vào đời sống. Vậy máu tử đạo nói gì với chúng ta?
Trước
hết, máu tử đạo nói lên niềm tin mãnh liệt, sâu xa và lòng trung thành sắt son
của cha ông đối với đạo thánh Chúa. Đức tin đã thấm nhập và đâm rễ sâu vào tâm
hồn các ngài đến nỗi không một sức mạnh trần gian nào có thể lay chuyển được.
Đối với các vị tử đạo, đức tin là một cái gì cao quí vô cùng, phải bảo vệ bằng
mọi giá. Dầu bị đe dọa, tra tấn với muôn khổ hình dã man ghê rợn, dầu phải đổ
đến giọt máu cuối cùng, các ngài cũng cam chịu, miễn sao bảo tồn được đức tin
nguyên vẹn.
Đàng
khác, được hấp thụ tinh thần nho giáo, các ngài đặt chữ “trung” lên trên hết.
Không những trung thành với vua chúa trần gian, với quê hương tổ quốc, mà nhất
là trung thành với vua chúa trên các vua, chúa trên các chúa, trung thành với
quê hương tổ quốc siêu nhiên là Giáo Hội. Đó là tấm gương sán lạn cha ông để
lại cho chúng ta.
Thứ
hai, máu tử đạo cũng nói lên đức hy sinh can đảm phi thường của tiền nhân.
Người ta ai mà không sợ đau khổ, ai mà không tham danh tranh lợi, ham sống sợ
chết. Nhưng với ơn Chúa, các vị tử đạo đã thướng vượt mọi trở lực, dầu khó khăn
đến đâu, để duy trì đức tin. Ai kể được những khổ hình dã man các ngài đã phải
chịu: kìm kẹp, xiềng xích, voi giày, thiêu sinh, trầm hà, trảm quyết, lăng trì,
bá đao… Nhưng các ngài can đảm chịu đựng, các ngài đã thắng tất cả: thắng vũ
lực, thắng quyền bính vua chúa trần gian, thắng ma quỉ, và thắng chính mình.
Các
vị tử đạo đã chết để nêu cao lòng hiếu trung. Các ngài đã từ bỏ tất cả, nhận
lấy cái chết, không chút oán giận những kẻ giết mình. Các ngài đã hy sinh đời
sống để theo một tôn giáo, minh chứng cho mọi người biết tôn giáo đó là từ trời
ban xuống và đạo Chúa Kitô là đạo thật. Các ngài chết nhưng luôn sống trong ký
ức chúng ta. Các ngài là những hạt giống tốt đã được gieo để đem lại hoa trái
phong phú cho chúng ta. Chúng ta đang thừa hưởng gia sản của các ngài, chúng ta
hãy sống tốt đẹp, xứng đáng với những hy sinh của các ngài.
Chúng
ta hãy nhớ rằng: tử đạo là một ân huệ đặc biệt Chúa ban cho ai tùy ý Ngài muốn,
nhưng nỗ lực làm chứng cho Chúa thì không dành riêng cho ai cả. Là Kitô hữu là
có nhiệm vụ làm chứng: làm chứng bằng lời nói, bằng hành động và bằng cả cuộc
đời cụ thể của mình. Nói rõ hơn, cách làm chứng tốt nhất cho Chúa, cho đạo là
sống bác ái yêu thương. Chúng ta cần phải thuyết phục những người chưa có đạo,
những người không hiểu về chính nghĩa của đạo chúng ta bằng cách sống trọn vẹn,
quyết liệt, dứt khoát tinh thần bác ái yêu thương đối với nhau và đối với những
người chung quanh.
|
Thứ Bảy, 17 tháng 11, 2012
Chúa Nhật 33 Thường Niên B
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét